LSDB xa Phu Hoi

LSDB xa Phu Hoi



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ
ÑANÛ G BOÄ XAÕ PHUÙ HOIÄ
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỘI
LÒCH SÖÛ
ÑAÛNG BOÄ XAÕ PHUÙ HOIÄ
(1930 - 2020)
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ Huyện ủy NHƠN TRẠCH
CỐ VẤN
Đ/c. Nguyễn Hữu Nghị - Phó Bí thư Huyện ủy
Đ/c. Dương Thị Mỹ Châu - UVTV, Chủ tịch HĐND huyện
Đ/c. Nguyễn Văn Lo - UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo
Huyện ủy
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Trưởng ban:
Đ/c. Huỳnh Phi Long
- Bí thư Đảng ủy
Phó Ban thường trực:
Đ/c. Huỳnh Thị Thu Sương - UVTV Đảng ủy
Phó ban:
Đ/c. Phan Văn Thành
- Phó Trưởng ban Tuyên giáo
Thành viên:
Đ/c. Nguyễn Vũ Anh
- Phó Chủ tịch UBND
Đ/c. Nguyễn Văn Mến
- Chủ tịch UBMTTQ
Đ/c. Đặng Hoàng Minh - Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
Đ/c. Phạm Văn Dã
- Văn phòng Đảng ủy
Đ/c. Vũ Thị Hường
- Tài chính
Đ/c. Nguyễn Thị Diễm Hạ - Ban Văn hóa - xã hội

1.5 Page 5

▲back to top


BAN BIÊN SOẠN
Trưởng ban
Đ/c. Huỳnh Phi Long
- Bí thư Đảng ủy
Phó ban
Đ/c. Huỳnh Thị Thu Sương - UVTV Đảng ủy
Đ/c. Tô Anh Quốc
- Chủ tịch UBND xã
Thành viên
Đ/c. Nguyễn Quang Vinh - Phó Chủ tịch HĐND
Đ/c. Nguyễn Văn Mến - Chủ tịch UB.MTTQVN
Đ/c. Nguyễn Vũ Anh
- Phó Chủ tịch UBND
Đ/c. Phan Văn Thành
- Phó Trưởng Ban Tuyên giáo
ThS. Phan Đình Dũng - Hội Khoa học Lịch sử Đồng Nai
TỔ THƯ KÝ
Đ/c. Phan Văn Thành
- Phó Trưởng Ban Tuyên giáo
Đ/c. Phạm Văn Dã
- Văn phòng Đảng ủy
Đ/c. Phan Thị Kim Oanh - Phó Chủ nhiệm UBKT
Đ/c. Nguyễn Thị Diễm Hạ - Ban Văn hóa - xã hội

1.6 Page 6

▲back to top


1.7 Page 7

▲back to top


Lôøi giôùi thieäu
Xã Phú Hội gắn liền với sự phát triển của vùng đất
Long Thành, Nhơn Trạch. Đây là vùng đất được những
thế hệ di dân khai khẩn cách đây hơn ba thế kỷ mà dấu
ấn là những làng, địa danh thân quen: Mỹ Hội, Phú Mỹ,
Xóm Hố, Đất Mới, Giang Lò, Đồng Môn, Vàm Kinh, rạch
Ông Hương, rạch Bàu Cá, rạch Tranh... Địa bàn Phú Hội từ
những thôn, làng, ấp, xóm trở thành đơn vị hành chính trong
sự sắp đặt của các thiết chế quản lý qua các thời kỳ lịch sử.
Nhân dân xã Phú Hội có truyền thống yêu nước, đấu
tranh chống áp bức, ngoại xâm gắn liền với phong trào yêu
nước của vùng đất Biên Hòa, Đồng Nai. Từ khi tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cùng với Nam Bộ, Biên
Hòa - Đồng Nai, người dân Phú Hội đấu tranh kiên cường
để giành lấy thắng lợi vẻ vang, tô thắm trang sử vàng của
dân tộc: Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến chống
Pháp (1945 - 1954), kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
Truyền thống đấu tranh cách mạng anh hùng trong kháng
7

1.8 Page 8

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
chiến chống ngoại xâm tiếp tục được quân dân Phú Hội phát
huy trong xây dựng chế độ mới từ ngày đất nước thống nhất
năm 1975. Cùng với cả nước, tỉnh Đồng Nai, huyện Long
Thành, Nhơn Trạch, quân dân xã Phú Hội vượt qua những
khó khăn, xây dựng cuộc sống với mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, định hướng phát triển của địa phương, Đảng
bộ xã Phú Hội lãnh đạo nhân dân hoàn thành Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới, quy hoạch phát
triển hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong xu thế
đô thị của Nhơn Trạch, liên kết các vùng đô thị phía Nam.
Những thành quả đạt được trong chặng đường vừa qua
là sự nỗ lực không ngừng của Đảng bộ, nhân dân xã Phú
Hội. Mỗi thời kỳ xây dựng và phát triển địa phương, Đảng
bộ xã Phú Hội và nhân dân đúc kết những kinh nghiệm quý
giá, hướng đến những thành tựu trong giai đoạn tiếp theo.
Truyền thống anh hùng của quân dân xã Phú Hội được phát
huy mạnh mẽ trong thời kỳ đất nước thực hiện đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc ở địa phương được
phát huy trong sự nghiệp đấu tranh và xây dựng quê hương.
Diện mạo của xã Phú Hội hôm nay đã có nhiều thay đổi
tích cực, từ một xã thuần nông đã chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng thương mại, dịch vụ, công nghiệp và nông
nghiệp. Định hướng phát triển và quy hoạch của xã Phú Hội
hướng đến một không gian đô thị trên nền tảng cơ sở của
8

1.9 Page 9

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đời sống kinh tế phát triển bền vững trong tương lai. Nhân
dân Phú Hội vui mừng trước những đổi thay của quê hương
khi kinh tế phát triển, đời sống văn hóa được nâng cao
chất lượng.
Nhằm ôn lại truyền thống yêu nước, phát huy sức
mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ xã Phú Hội tiến
hành biên soạn Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội giai đoạn 1930
- 2020. Quá trình biên soạn lịch sử của địa phương được
sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân Nhơn
Trạch, sự đóng góp tư liệu của nhiều nhân chứng, cán bộ
lão thành cách mạng... Sau thời gian sưu tầm tư liệu, nghiên
cứu và biên soạn, nội dung bản thảo lịch sử của Đảng bộ xã
Phú Hội thời kỳ 1930 - 2020 hoàn thành. Đây là nỗ lực lớn
của Đảng ủy xã Phú Hội thực hiện nhiệm vụ chính trị, có ý
nghĩa thiết thực với quê hương trong tuyên truyền, giáo dục
về tinh thần cách mạng, quảng bá hình ảnh địa phương.
Truyền thống yêu nước, cách mạng của xã Phú Hội
từ năm 1930 đến năm 2020 được phản ánh qua nội dung
với phân kỳ phù hợp theo đặc điểm lịch sử Đảng, của tỉnh
Đồng Nai, huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Bên cạnh đó,
những nét văn hóa sinh động của cộng đồng cư dân cùng
lược sử hành chính của địa phương được đề cập để người
đọc hiểu biết thêm về vùng đất Phú Hội trong dòng chảy
lịch sử Biên Hòa - Đồng Nai và vùng Nam Bộ.
9

1.10 Page 10

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Trong quá trình thực hiện lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội,
mặc dù có những nỗ lực, cố gắng trong thu thập thông tin,
hồi cố tư liệu từ nhân chứng, kế thừa tài liệu đã công bố...
nhưng địa phương cũng gặp một số khó khăn trong công
tác biên soạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hội mong nhận được ý kiến
đóng góp với tinh thần xây dựng để bổ sung, hoàn chỉnh cho
những lần tái bản khi có điều kiện. Đảng ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban mặt trận Tổ quốc xã Phú Hội
ghi nhận và tri ân những tổ chức, đơn vị, cá nhân đã đóng
góp, hỗ trợ tư liệu cho việc thực hiện công trình này.
TM. BCH Đảng bộ xã Phú Hội
Bí thư
Huỳnh Phi Long
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


Chương I
VÙNG ĐẤT, CƯ DÂN
VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
1. Địa lý, môi trường tự nhiên
Phú Hội là đơn vị cấp xã thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa khoảng 40km về hướng
Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 35km về hướng
Đông tính theo đường chim bay. Vị trí địa lý của xã Phú Hội
được xác định: Phía Bắc và Đông Bắc giáp xã Phước Thiền;
Phía Tây và Tây Nam giáp xã Long Tân; Phía Đông Nam
giáp xã Hiệp Phước. Tọa độ địa lý như sau: Kinh độ Đông:
từ 10605300’’đến 10605307’’; Vĩ độ Bắc: từ 1004538’’ đến
1004547’’. Chiều dài trung bình từ Bắc đến Nam là: 4,13km.
Chiều rộng trung bình từ Đông sang Tây là: 3,71km.
Tổng diện tích của xã Phú Hội là: 1.918,86ha, chiếm
4,69% tổng diện tích của huyện Nhơn Trạch. Phú Hội là
vùng đất nằm ven sông Đồng Môn, phân bố ở hai bên tỉnh
lộ 769 (25A) - con đường đi từ thị trấn Long Thành về phà
Cát Lái của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vùng địa hình
bán bình nguyên, có bề mặt nghiêng thoải từ Đông Nam (độ
cao 31m) xuống Tây Bắc (độ cao 0,8-1,0m), là vùng chuyển
tiếp giữa đất gò đối với vùng phù sa phèn.
11

2.2 Page 12

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Địa hình cao: phân bố thuộc khu vực phía Nam tỉnh
lộ 769, địa hình có độ dốc từ 00 đến 80 .
- Dạng địa hình trung bình: phân bố ở hai bên hương
lộ 769 là vùng chuyển tiếp giữa đất gò đồi với vùng phù
sa phèn.
- Dạng địa hình thấp trũng: nằm ở hai bên bờ sông
Đồng Môn. Đây là vùng trũng thấp với hệ thống kênh rạch
chằng chịt, bị ảnh hưởng nước thủy triều của sông Đồng
Môn nên thường bị ngập nước thường xuyên.
- Mức cao 10-31m: Là những địa hình bán bình
nguyên, thoải rộng khá bằng phẳng chủ yếu tập trung ở phía
Đông Nam của xã.
- Mức cao 10m trở xuống: Là vùng đồng bằng thuộc
vùng thấp sông Đồng Môn phát triển ở phía Bắc - Tây Bắc
của xã. Đây là vùng đất nông nghiệp quan trọng và nuôi
trồng thủy sản tuy nhiên diện tích này đang bị thu hẹp do
quá trình công nghiệp và đô thị hóa.
Đất đai của Phú Hội có các nhóm chính sau:
- Đất phèn: diện tích 343,92ha, chiếm 17,93% diện
tích tự nhiên, phân bố ở vùng thấp trũng ven các sông, rạch
của xã. Đất phèn có độ phì khá, nằm ở địa hình thấp, ngập
nước triều sông Đồng Môn thích hợp cho việc canh tác
lúa nước.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Đất xám: diện tích lớn nhất 1.466,96ha, chiếm
76,45% diện tích tự nhiên. Đất có thành phần cơ giới nhẹ,
tỷ lệ cát cao trên 70%, phân bố ở địa hình cao, chân gò đồi,
dễ thoát nước, nghèo dinh dưỡng. Nhóm đất xám phù hợp
với nhiều mục đích sử dụng như trồng cây công nghiệp dài
ngày, cây ăn trái, cây theo vụ; đồng thời thích hợp với các
công trình giao thông, xây dựng các khu công nghiệp.
- Đất xám vàng trên phù sa cổ (có kết von): diện tích
390,76ha, chiếm 20,36% diện tích tự nhiên, tập trung chủ
yếu ở vùng ven chân đồi, có nhiều đặc tính cơ lý tốt. Nhóm
đất này thích hợp với trồng rừng, giao thông, xây dựng nhà
ở, các công trình và khai thác làm vật liệu xây dựng.
- Đất xám vàng trên phù sa cổ (cơ giới nhẹ, rất
nghèo bazơ): diện tích 1.025,42ha, chiếm 53,44% diện tích
tự nhiên, tập trung ở địa hình cao, thoát nước tốt. Đất có tỷ
lệ cát rất cao, có độ chua thủy phân ở mức thấp. Loại đất này
thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp dài ngày.
- Đất Gley trên phù sa cổ: diện tích 50,78ha, chiếm
2,65% diện tích tự nhiên, phân bố ở ven chân đồi. Đất có
thành phần cơ giới rất nhẹ, độ phì tự nhiên thấp, hàm lượng
dinh dưỡng rất nghèo. Loại đất này thích hợp trồng cây ăn
trái và hoa màu.
Nhìn chung, phần lớn các nhóm đất của xã Phú Hội có
chất lượng tốt, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là
13

2.4 Page 14

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
các giống cây nhiệt đới dài ngày có giá trị kinh tế cao. Ngoài
ra, đất đai của xã Phú Hội phần lớn được hình thành trên nền
địa chất vững chắc (trầm tích phù sa cổ) nên rất thuận lợi
cho việc bố trí phát triển đất phi nông nghiệp.
Hệ thống sông, rạch của Phú Hội chủ yếu tập trung
ở vùng phía Bắc xã, bao gồm sông Đồng Môn, rạch Miếu
Bà, rạch Bàu Cá, rạch Cát... chịu sự tác động của thủy triều
theo chu kỳ bán nhật. Hệ thống sông, rạch này vừa là đường
giao thông, đồng thời cũng là kho dự trữ nước ngọt trong
những tháng mưa lũ để cung cấp nước tưới cho cây trồng
trong mùa khô. Các loài tôm, cá nước ngọt di chuyển theo
mùa theo trên sông Đồng Môn và các kênh, rạch là nguồn
lợi thủy sản của địa phương.
Tài nguyên nước mặt của xã Phú Hội chủ yếu được
cung cấp bởi hai con sông Đồng Môn và Vàm Kinh. Sông
Đồng Môn dài 11,4km là một trong những con sông chính
của Long Thành - Nhơn Trạch, chảy qua địa bàn các xã
Long Tân, Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phú Hữu.
Đoạn chảy qua xã Phú Hội dài 2,5km, đổ ra sông Đồng
Nai. Sông Vàm Kinh chảy qua xã Phú Hội dài 1,2km và đổ
vào sông Đồng Môn ở phía Tây Bắc giáp với xã Long Tân.
Nước ngầm ở Phú Hội dồi dào từ đặc điểm của hệ thống
sông Đồng Môn và các rạch. Trữ lượng của nước ngầm lớn,
độ mặn thấp nhưng ở tầng khá sâu, chiều sâu tầng chứa
nước từ 30 đến 83m.
14

2.5 Page 15

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Các chi lưu của sông Đồng Môn qua địa phận xã Phú
Hội có:
- Rạch Miễu Bà: bắt nguồn từ sông Đồng Môn chảy
vào địa phận xã Phú Hội đến chợ Phú Hội khoảng 5km. Đầu
rạch rộng trên 20m, cuối rạch rộng hơn 10m. Đây là đường
thủy thuận lợi đối với người dân đi đến cánh đồng sản xuất
và chuyên chở hàng hóa từ địa phương đến Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Rạch Ông Hương rộng 20m, dài 2km ở ấp Phú Mỹ II.
Là đường thủy giao thông nội xã, nguồn nước được sử dụng
để phục vụ sản xuất, tưới tiêu.
- Rạch Bàu Cá ở ấp Đất Mới, chảy ra rạch Tranh (ấp
Xóm Hố), ra sông Đồng Môn.
- Rạch Cát ở ấp Phú Mỹ I và ấp Phú Mỹ II. Lòng rạch
có nhiều cát nên người dân địa phương lấy đặc điểm đó làm
tên gọi.
Hệ thống sông, rạch của Phú Hội chủ yếu tập trung ở
vùng phía Bắc xã, bao gồm sông Đồng Môn, rạch Miễu Bà,
rạch Bàu Cá, rạch Cát... chịu sự tác động của thủy triều theo
chu kỳ bán nhật. Hệ thống sông, rạch này vừa là đường giao
thông, đồng thời cũng là kho dự trữ nước ngọt trong những
tháng mưa lũ để rồi cung cấp nước tưới cho cây trồng trong
mùa khô. Các loài tôm, cá nước ngọt di chuyển theo mùa
theo trên sông Đồng Môn và các kênh, rạch là nguồn lợi
15

2.6 Page 16

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thủy sản đáng kể cho các hộ dân sống dọc bên bờ sông và
các rạch.
Về rừng, địa bàn xã Phú Hội trước đây có nhiều gò
nổng cao với các loại cây gỗ quý. Chung quanh đình Phú
Mỹ hiện nay là một hệ sinh thái thực vật được bảo tồn một
số cây cổ thụ. Nhiều loại cây tạp ở các vùng thấp ven các
đồi, nổng. Gắn với rừng là các loại động vật sinh sống; trong
đó, từ thời khai khẩn có cả loài cọp. Ngày nay, sự mở rộng
về địa bàn cư trú qua các thời kỳ, rừng ở Phú Hội bị thu hẹp
lại rất nhiều và cả bị tàn phá trong thời kỳ chiến tranh chống
Mỹ trên địa bàn Nhơn Trạch, trong đó có khu Lòng Chảo.
Hiện nay, diện tích cây rừng sản xuất được trồng các loại
bạch đàn, tràm phục vụ cho nhu cầu khai thác, chiếm 10%
diện tích của xã. Trong định hướng phát triển đô thị, diện
tích của rừng, đồi sẽ giảm nhanh, diện tích chuyển đổi phi
nông nghiệp, phát triển công nghiệp.
Phú Hội nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận
xích đạo, mang đặc điểm chung của vùng Nhơn Trạch, Long
Thành. Nhiệt độ cao đều quanh năm, ít gió bão. Lượng mưa
lớn và phân hóa, trung bình từ 1.800mm đến 2.000mm/năm.
Trong năm, hình thành hai mùa khá rõ nét. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, trong đó các tháng 8, 9 và 10 có lượng
mưa cao nhất. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, ít
mưa, khoảng 10% lượng mưa cả năm; trong đó tháng 1, 2
hầu như không mưa. Phú Hội chịu ảnh hưởng của gió mùa
16

2.7 Page 17

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Tây Nam là chủ yếu, làm cho thời tiết có xu hướng về nóng
ẩm, không lạnh, mưa nhiều đầu mùa, ít bão.
2. Cư dân và hoạt động kinh tế
Dân số xã Phú Hội theo thống kê năm 2020 có 10.604
người. Toàn xã có 6 thành phần dân tộc cộng cư: người Kinh
(Việt) chiếm số lượng đông đảo nhất (tỷ lệ 98,67%), kế đến
người Hoa, Khmer, Thái, Tày, Mông. Các tộc người khác
có số lượng không nhiều, đến sinh sống trong khoảng thời
gian sau này.
Xã Phú Hội có 4 ấp (Xóm Hố, Đất Mới, Phú Mỹ 1,
Phú Mỹ 2).
- Ấp Xóm Hố như tên gọi, là vùng đất thấp của xã Phú
Hội nối với xã Long Tân, chung quanh là những đồi, nổng
có địa hình cao. Đây là địa bàn có nhiều người dân sinh sống
từ lâu. Diện tích của ấp là 384ha. Ấp có 778 hộ, 2.833 người
(1.458 nam, 1.375 nữ).
- Ấp Đất Mới là vùng đất khai khẩn sau các thôn làng
khác của xã Phú Hội trước đây (Phú Mỹ, Mỹ Hội, Xóm
Hố...). Diện tích của ấp là 800ha. Hiện nay, ấp có 750 hộ,
2865 người (1.469 nam, 1.396 nữ).
- Ấp Phú Mỹ 2 có diện tích 398,6ha. Tên gọi Phú Mỹ
có từ sớm khi người dân đến khai khẩn, lập làng và được
ghi vào địa bạ của triều Nguyễn. Ấp có 612 hộ, 2.370 người
(1.229 nam, 1.141 nữ).
17

2.8 Page 18

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Ấp Phú Mỹ 1 vốn là xã Phú Mỹ trước đây, có tên là
ấp Xóm Vườn, sau này sáp nhập với xã Mỹ Hội. Diện tích
của ấp là 823,5ha. Hiện nay, ấp có 610 hộ thường trú, 120
hộ tạm trú, gồm 3.005 nhân khẩu).
Hoạt động kinh tế mang tính chủ đạo qua các giai
đoạn của Phú Hội là nông nghiệp. Trong đó, việc canh tác
trồng lúa và các cây lương thực được duy trì, phát triển và
là nguồn đảm bảo cho đời sống kinh tế của người dân. Diện
tích trồng lúa chiếm diện tích lớn, tiếp theo là cây mì, điều,
cây ăn trái, sen và các loại rau, đậu. Trên địa bàn xã, trong
chính sách phát triển cây công nghiệp chung cho vùng đất
Biên Hòa, chính quyền thực dân đã có thời kỳ đầu tư trồng
cao su. Diện tích cao su hiện nay của xã khoảng 20ha. Người
dân áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, sản xuất lúa
tăng vụ và một số diện tích cây trồng khác được thâm canh.
Chăn nuôi trong hộ gia đình có tính chất tự phát, chủ yếu
là các loại gia cầm, gia súc (bò, heo, dê, thỏ, gà, vịt). Tận
dụng nguồn nước ao, hồ, sông rạch, cư dân địa phương nuôi
cá với diện tích không nhiều và đánh bắt thủy sản. Ngành
tiểu thủ công nghiệp có được duy trì trong hoạt động kinh tế
với những nghề truyền thống: chế biến trà, chế biến thức ăn
(bánh tráng, bún, đậu hũ), xay xát, nghề mộc, nấu rượu, làm
bánh, trồng cây cảnh. Sau này, một số ngành nghề mới xuất
hiện theo nhu cầu như sản xuất nước đá, sửa chữa cơ khí,
sản xuất thức ăn, sấy nông sản... mang tính nhỏ lẻ. Mạng
lưới dịch vụ xuất hiện trong đời sống của người dân địa
18

2.9 Page 19

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
phương qua các cửa hàng, điểm bán nhiều loại hàng hóa,
thực phẩm. Trên địa bàn xã hiện nay có hai chợ và trên 300
cơ sở kinh doanh đa dạng về lĩnh vực (vận tải, vật liệu xây
dựng phòng trọ, giải khát, ăn uống...).
3. Lịch sử hành chính
Hiện nay, xã Phú Hội là đơn vị hành chính cấp xã của
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Qua các thời kỳ, địa bàn
Phú Hội có những biến động từ thôn, làng ấp và cấp quản
lý hành chính. Lịch sử phát triển của xã Phú Hội về địa giới
liên quan đến vùng đất Nam Bộ rộng lớn trước khi đặt dưới
sự quản lý của của chúa Nguyễn vào thế kỷ XVII cho đến
sau này.
Trước Công nguyên, vùng đất Nhơn Trạch có nhiều cư
dân cổ sinh sống, dấu ấn của các lớp cư dân này phản ánh
qua một số di chỉ khảo cổ, hiện vật được phát hiện. Từ đầu
Công nguyên trở đi đến thế kỷ VII, vùng Đồng Nai rộng lớn
bao gồm cả khu vực Đông Nam Bộ trong địa giới của vương
quốc Phù Nam. Sau đó, Phù Nam suy vong và lệ thuộc vào
sự quản lý của các quốc gia Chân Lạp và nhiều thế lực lân
cận tranh chấp lẫn nhau. Năm 1698 là mốc thời gian có tính
chất bước ngoặt khi vùng đất Đồng Nai - Gia Định đặt dưới
sự quản lý của chúa Nguyễn Phúc Chu1. Thống suất Chưởng
1  Chúa Nguyễn Phúc Chu (1625 - 1725), vị chúa thứ sáu của chính quyền
Đàng Trong, tại vị từ năm 1691 đến năm 1725, Thụy hiệu: Hiếu Minh
hoàng đế.
19

2.10 Page 20

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
cơ Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện kinh lược phương Nam, sắp
đặt bộ máy hành chính” ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ
Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng
nên dinh Trấn Biên (lỵ sở là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn
làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần
Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục
để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân
binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để
hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu
dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường
ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng
đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên
được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập
thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch”1. Địa bàn
Phú Hội dinh Trấn Biên, huyện Phước Long, phủ Gia Định.
Nửa cuối thế kỷ XVIII, vùng đất Đồng Nai là địa bàn
tranh chấp giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn. Năm 1776,
khi đánh bại chúa Nguyễn, chiếm được Nam Bộ, Đông Định
Vương Nguyễn Lữ đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn.
Như vậy, đất Phú Hội thuộc dinh Biên Trấn. Đến năm 1788,
chúa Nguyễn Ánh cai quản vùng đất Nam Bộ, chia đất Gia
Định thành 5 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn
Định, Hà Tiên). Đất Phú Hội của Đồng Nai thuộc tổng Long
Thành, dinh Trấn Biên của thành Gia Định.
1  Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch,
Huỳnh Văn Tới hiệu đính), Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, tr.112.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Đầu thế kỷ XIX, Nam Bộ có những thay đổi về hành
chính khi vua Gia Long thực hiện sắp đặt bộ máy. Năm
1808, địa bàn Phú Hội thuộc huyện Long Thành, trấn Biên
Hòa, phủ Phước Long, thành Gia Định (lúc bấy giờ các tổng
ở Biên Hòa được đổi thành huyện và dinh đều được đổi
thành trấn). Năm 1820, Phú Hội vốn thuộc tổng Thành Tuy
(mới đặt) của huyện Long Thành. Tổng Thành Tuy này có
29 thôn, trong đó có đề cập thôn Mỹ Khoan, thôn Phú Mỹ
An với địa giới rộng bao gồm vùng Phú Hội xưa.
Năm 1832, vua Minh Mạng sắp xếp lại đơn vị hành
chính trên cả nước. Các đơn vị là trấn ở Nam Kỳ được đổi
thành tỉnh (Nam Kỳ lúc bấy giờ có 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia
Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Đất Phú
Hội thuộc huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa, phủ Phước
Long, thành Gia Định. Năm 1836, vua Minh Mạng thực
hiện đo đạc ruộng đất Nam Kỳ. Tỉnh Biên Hòa có 1 phủ
Phước Long, 4 huyện (Bình An, Long Thành, Phước An,
Phước Chánh) với 22 tổng, 285 thôn, ấp. Tổng Thành Tuy
được chia thành hai: Thành Tuy Thượng (12 thôn), Thành
Tuy Hạ (13 thôn, ấp). Vùng đất Phú Hội gồm ấp Mỹ Hội,
thôn Phú Mỹ thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành,
tỉnh Biên Hòa. Một năm sau, có sự điều chỉnh về hành chính:
huyện Long Thành trực thuộc phủ Phước Tuy. Phú Hội từ
năm 1837 đến trước khi Biên Hòa bị Pháp chiếm, trực thuộc
huyện Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa.
21

3.2 Page 22

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Từ năm 1861, Pháp đánh chiếm Biên Hòa. Năm 1862,
triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất (ngày 9-5-1862) cắt
ba tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ là Biên Hòa, Gia Định,
Định Tường cho thực dân Pháp. Dưới sự cai trị của Pháp,
trong một số giai đoạn, tỉnh Biên Hòa có những biến động
và thay đổi địa giới, tên gọi. Năm 1864, tỉnh Biên Hòa thành
Tiểu khu Biên Hòa. Năm 1865 tỉnh Biên Hòa chia thành 05
sở Tham Biện (Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bà
Rịa, Bảo Chánh). Năm 1866, tỉnh Biên Hòa chia thành 6 địa
hạt (Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức, Bình An, Bảo
Chánh)... Như vậy, địa bàn Phú Hội thuộc tổng Thành Tuy
Hạ, phụ thuộc vào sự thay đổi hành chính này, chủ yếu là sự
thay đổi tên gọi trực thuộc từ cấp tỉnh: sở Tham biện Long
Thành, địa hạt Long Thành, quận Long Thành của Tiểu khu,
tỉnh Biên Hòa.
Năm 1871, Thống đốc Nam Kỳ ban hành nghị định
xóa bỏ hạt Thanh tra Long Thành, sáp nhập vào hạt Thanh
tra Bà Rịa. Như vậy, giai đoạn này, địa bàn Phú Hội thuộc
tổng Thành Tuy hạt Thanh tra Bà Rịa nhưng chỉ trong thời
gian ngắn lại nhập vào hạt Thanh Tra Biên Hòa.
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ chia toàn bộ Nam Kỳ
thành 4 khu vực hành chính, gồm Tây Ninh, Thủ Dầu Một,
Biên Hòa, Bà Rịa và Sài Gòn. Mỗi khu vực có một số Tiểu
khu tương đương với một phủ hay một huyện thời Nguyễn.
Trong thời gian này, các đơn vị hành chính trước đó là xã,
22

3.3 Page 23

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thôn, ấp đều gọi thống nhất là làng. Hạt Tham biện Biên
Hòa bao gồm địa giới của huyện Phước Chánh và huyện
Long Thành cũ (trừ tổng Long Vĩnh Thượng chuyển qua hạt
Tham Biện Sài Gòn). Các làng, thôn ấp của Phú Hội thuộc
tổng Thành Tuy Hạ của hạt Tham biện Biên Hòa.
Theo sách Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu, năm
1878, vùng đất Phú Hội gồm làng Mỹ Hội (ấp Mỹ Thành/
còn gọi là Giang Lò), xóm Bàu Cá và Phú Mỹ (Bến Cam)
thuộc tổng Thành Tuy Hạ, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa.
Theo bản đồ của Boilloux khi miêu tả tỉnh Biên Hòa năm
1881, vùng đất Phú Hội xưa khá rộng, một phần của làng
Mỹ Khoan (nay thuộc Hiệp Phước). Năm 1899, Toàn quyền
Đông Dương ban hành nghị định, đổi tất cả các hạt Tham
biện ở Nam Kỳ thành đơn vị hành chính, gọi là tỉnh và tồn
tại cho đến năm 19451. Năm 1900, các làng Mỹ Hội, Mỹ
Khoan, Phú Mỹ cùng với 16 làng khác của tổng Thành Tuy
Hạ trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Lịch An Nam thông dụng 1897 thì ghi chú ngoài làng
Mỹ Khoan trước đây còn có thêm các làng: Mỹ Hội, Phú
Mỹ, An Phú. Các làng Mỹ Khoan, Mỹ Hội, Phú Mỹ, An Phú
vẫn còn tên trong tư liệu Monographie de Bien Hoa năm
1  Nam Kỳ được chia thành ba miền, có 20 tỉnh, bao gồm: miền Đông có
các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa, miền Trung có các
tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Vĩnh Long, Bến Tre,
Trà Vinh và Sa Đéc, miền Tây có các tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên,
Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
23

3.4 Page 24

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
1901. Địa chí tỉnh Biên Hòa (Monographie de Bien Hoa)
của Robert. M cho biết, năm 1924 một phần làng Mỹ Khoan
sáp nhập cùng với làng Mỹ Hội, Phú Mỹ để hình thành xã
Phú Hội. Năm 1927, làng Mỹ Khoan nhập với làng Phước
Kiển thành làng Phước Mỹ.
Trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, năm 1939, tỉnh
Biên Hòa có 5 quận (Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên,
Xuân Lộc, núi Bà Rá), lúc bấy giờ, quận Long Thành có
3 tổng (Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy Thượng, Thành
Tuy Hạ). Các làng Mỹ Hội, Phú Mỹ, An Phú, Lương Thiện
không còn xuất hiện mà thay vào đó là làng Phú Hội. Chắc
chắn sự thay đổi tên gọi của các làng thôn này cũng có sự
thay đổi về địa giới nhưng không đáng kể. Địa bàn Phú Hội
thuộc Thành Tuy Hạ của quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa.
Như vậy, từ khi đánh chiếm và đặt sự quản lý lên vùng
đất Nam Kỳ của Việt Nam, đã có nhiều thay đổi của chính
quyền thực dân Pháp áp dụng cho xứ thuộc địa. Địa bàn
Phú Hội của tổng Thành Tuy Hạ trực thuộc thứ tự như sau:
huyện Long Thành, tiểu khu Biên Hòa (1863 - 1864), sở
Tham biện Long Thành (1864 - 1866), hạt Thanh tra Bà
Rịa (1871), hạt Tham biện Biên Hòa (1876), Địa hạt Long
Thành (1876 - 1899), tỉnh Biên Hòa (1900 - 1945).
Trong giai đoạn 1945 - 1954, về phía chính quyền
thực dân, địa bàn Phú Hội vẫn thuộc hành chính như giai
24

3.5 Page 25

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đoạn trước. Về phía chính quyền cách mạng, đầu năm 1951,
Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại chiến trường. Toàn
Nam Bộ được chia thành hai đơn vị là: Phân liên khu miền
Đông và miền Tây. Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp
nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập
thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường gọi là Bà Chợ). Huyện
Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ và địa bàn Phú Hội thuộc
huyện Long Thành, tỉnh Bà Chợ.
Đối với phong trào đấu tranh cách mạng của huyện
Long Thành, cuối năm 1951, địa bàn này có sự phân chia
theo đơn vị khu để kiện toàn, đẩy mạnh công tác vũ trang
tuyên truyền. Toàn huyện Long Thành chia làm 05 khu.
Xã Phú Hội bao gồm Phú Mỹ, Mỹ Hội cùng với xã Phước
Thiền, Long Tân thuộc Khu II.
Từ năm 1954 đến 1975, chính quyền Sài Gòn có một
số thay đổi hành chính. Năm 1956, tỉnh Biên Hòa được
thành lập sau khi có một số điều chỉnh về địa giới để hình
thành một số tỉnh mới. Lúc bấy giờ, địa bàn Phú Hội thuộc
tổng Thành Tuy Thượng của quận Long Thành, tỉnh Biên
Hòa. Ngày 9-9-1960, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
ban hành nghị định số 858-NV thành lập quận mới Nhơn
Trạch thuộc tỉnh Biên Hòa. Theo nghị định này, quận Nhơn
Trạch có hai tổng: Thành Tuy Trung, Thành Tuy Hạ. Tổng
Thành Tuy Trung gồm các xã: Phước An (trước thuộc tổng
Thành Tuy Hạ, quận Long Thành), Phước Thọ, Phước Long,
25

3.6 Page 26

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Phước Lai, Phước Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền (trước thuộc
tổng Thành Tuy Thượng quận Long Thành); tổng Thành Tuy
Hạ gồm các xã: Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước
Khánh, Vĩnh Thạnh, Long Tân (trước thuộc tổng Thành
Tuy Hạ, quận Long Thành). Xã Phú Hội từ tổng Thành Tuy
Thượng của quận Long Thành thuộc tổng Thành Tuy Trung
của quận Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa. Địa phương chí tỉnh
Biên Hòa của Tòa Hành chính tỉnh Biên Hòa năm 1971 có
ghi xã Phú Hội có các ấp: xóm Vườn, ấp Chợ, ấp Phú Mỹ,
ấp Đất Mới.
Về phía chính quyền cách mạng, địa bàn Phú Hội vẫn
thuộc Long Thành, Nhơn Trạch nhưng có sự thay đổi theo
sự phân chia trong từng giai đoạn cụ thể của tỉnh Biên Hòa:
Thuộc huyện Long Thành tỉnh Biên Hòa (tháng 10-1954 -
1960), tỉnh Thủ Biên (9-1960 - tháng 7-1961)1, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Biên Hòa (năm 1961), huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Bà Biên (1963)2, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa (1965)3,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Long Bà Biên (tháng 12/1966 - năm
1  Tỉnh Thủ Biên tách thành 3 tỉnh: Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Phước
Thành. Tỉnh Biên Hòa gồm các huyện: Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn
Trạch, thị xã Biên Hòa.
2  Trên cơ sở sát nhập 2 tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, gọi tắt là tỉnh Bà Biên, tồn
tại trong thời gian tháng 3-1963 đến tháng 12-1963. Tháng 12-1966, tỉnh
Bà Biên được thành lập trên cơ sở 3 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa
và đến tháng 10-1967 thì giải thể, thành 3 các đơn vị: tỉnh Bà Rịa - Long
Khánh, Phân khu 4 và Biên Hòa U1.
3  Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa lúc này có 3 đơn vị cấp tỉnh: Biên Hòa U1
(thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu), Biên Hòa, Long Khánh. Biên Hòa U1
tồn tại cho đến tháng 10-1972 sáp nhập vào tỉnh Biên Hòa.
26

3.7 Page 27

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
1967), Phân khu 4 (tháng 10-1967 đến tháng 4-971), Phân
khu Bà Rịa (tháng 5-1971 đến tháng 8-1972), huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Biên Hòa nông thôn (tháng 6-1973 - năm 1975)1.
Sau ngày đất nước thống nhất, xã Phú Hội thuộc
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cho đến năm 1994. Theo
Nghị định số 51-CP của Chính phủ ngày 23-6-1994 về việc
điều chỉnh địa giới thuộc tỉnh Đồng Nai, trong đó huyện
Long Thành được chia tách thành hai huyện: Long Thành
và Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên
là 40.146ha và 101.882 nhân khẩu. Xã Phú Hội là 1 trong
12 đơn vị hành chính của huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai cho đến hiện nay (Phú Hội, Phước Thiền, Long Tân,
Phú Thạnh, Phú Đông, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh,
Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước).
4. Sắc thái văn hóa
- Lập làng, cư trú
Người Việt đến khai phá vùng đất Phú Hội từ rất sớm.
Trong bối cảnh chung trong công cuộc khai phá đất Đồng
Nai xưa, có thể thấy nguồn gốc của những cư dân đến sinh
sống ở Phú Hội đa dạng. Nhiều người dân từ miền Trung
đến đây khai khẩn cách đây trên 200 năm. Họ vượt đường
biển, ngược các dòng sông để tìm vùng đất thích hợp lập
1  Tỉnh Biên Hòa chia thành thành phố Biên Hòa và tỉnh Biên Hòa
nông thôn (các huyện: Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch,
Cao Su)
27

3.8 Page 28

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
làng, khai khẩn. Một chi họ Nguyễn tại Phú Mỹ cho biết,
gốc từ miền Trung, đời ông cố là lính áp tải lương thực cho
triều đình từ Nam Bộ ra Huế, bị bão chìm tàu, tìm đến Phú
Hội sinh sống. Có nhiều dòng họ đến nơi khác sinh sống,
rồi một thời gian sau tìm đến Phú Hội lập nghiệp bởi vùng
đất rộng, người thưa và điều kiện canh tác, đánh bắt thuận
lợi. Các giai đoạn về sau, nhiều cư dân từ các nơi tìm đến
sinh sống ở Phú Hội, lập làng, làm nhà, khai khẩn các vùng
đồi, mở rộng diện tích canh tác ở vùng sông rạch. Buổi đầu
khai khẩn, các lớp cư dân đối diện với nhiều hiểm nguy, khó
khăn từ môi trường tự nhiên, dịch bệnh, thú dữ trong cảnh
chung của xứ Đồng Nai “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp
um”. Rừng Phú Hội trước đây nối liền, trải dài tới vùng giáp
sông cận biển. Đường xá heo hút và len lỏi trong các rừng
cây, dân ở thành làng, ấp nhưng cách xa nhau.
Tham khảo về tư liệu Minh Điều hương ước ban hành
năm 1852 (triều vua Tự Đức), có quy định trong bộ máy
hành chính ở Nam Bộ, có thể hình dung những đặc điểm
làng xã của Nhơn Trạch xưa, trong đó có Phú Hội. Những
cư dân chọn đất lập làng “Những người đi khai hoang
thường theo đường thủy, chọn những gò đất cao ráo, ven
sông rạch để định cư. Những địa điểm vừa thuận lợi giao
thông, tránh được nạn ngập lụt, và môi trường thiên nhiên
được ưu đãi nhiều mặt. Khi dân số phát triển đông, cộng
thêm dòng người mới đến, họ bắt đầu tiến sâu vào đồng nội.
Các thành viên trong làng thường có quan hệ huyết thống,
28

3.9 Page 29

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thân tộc, bạn bè và hệ thống chính quyền cũng mang tính
tự trị, tự quản”. Và, việc thành lập các xã, thôn, ấp căn cứ
trên các tiêu chí: Khi có trên 200 dân đinh, khai khẩn trên
100 mẫu thì được phép thành lập một thôn lớn, gọi là “xã”;
Khi có từ 50 đến 200 dân đinh, khai khẩn từ 50 đến 100
mẫu, được phép thành lập một thôn nhỏ, gọi là “thôn”; Khi
có khoảng 10 dân đinh, khai khẩn khoảng 10 mẫu thì được
phép thành lập một thôn nhỏ hơn, gọi là “ấp” (có khi gọi
là “giáp”, “lân”, “trại”, “lý”. Trong một xã có có năm loại
chức dịch: Một loại có thể xuất thân tầng lớp nghèo nàn chỉ
biết lấy công lao làm thành tích, thì được cử vào các chức
vụ thừa hành, giám sát, tuần tra, ...; Một loại xuất thân từ
tầng lớp có thể cử vào các chức vụ quản lý tiền bạc, tài sản.
Một loại có căn cơ lý lịch (con cháu các bậc có công khai
hoang lập làng) có thể được cử vào các chức vụ gìn giữ
truyền thống địa phương; Một loại xuất thân từ tầng lớp
có học hành có thể được cử vào các chức vụ giấy tờ bút
mực, giáo dục, văn hóa. Các quan văn võ khi hưu trí về làng
được cử chức “hương quan”, cố vấn các mặt. Trong một
xã có khoảng 30 nhiệm vụ: trưởng mục, hương chủ, hương
sư, hương chánh, hương quản, hương thân, hương hào, thôn
trưởng (xã trưởng), phó thôn, lý trưởng, biện đình, biện lại,
cai lân, cai tuần, trưởng ấp, cai bình, tham trưởng, cai đình,
trì sư, hương điền, chánh bái, hương lễ, hương ẩm, thủ chỉ,
thủ bổn, kế hiền. Để tránh rườm rà, thời đó cho phép mỗi
người kiêm năm ba chức vụ hoặc các đơn vị thôn ấp (nhỏ
29

3.10 Page 30

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
hơn xã) được phép tùy nghi lược giản. Tuy không qui định
cụ thể, nhưng ở Nam Bộ khi được phép lập làng xã, thì việc
đầu tiên là đủ khả năng xây dựng các thiết chế: đình, chùa,
miếu, võ. Mỗi xã (hay thôn) có một nhà vuông (nhà võ), mỗi
ấp (hay lân) cũng có một nhà võ là nơi hương chức làm việc,
là trạm canh, nơi hội họp dân làng dân ấp, thờ tiên sư (bậc
đàn anh trong xóm)1.
Nhà ở truyền thống của người dân Phú Hội thường
được tạo dựng để đảm bảo cư trú cho các thành viên và thể
hiện lối ứng xử với ông bà, tổ tiên. Quy mô nhà ở tùy theo
điều kiện kinh tế của gia đình. Hầu hết, thời kỳ đầu, các
nguyên vật liệu xây dựng chủ yếu là cột gỗ, vách lá, phên,
lợp tranh. Về sau, đời sống ổn định và có nhiều nguyên vật
liệu, nhà ở được xây dựng kiên cố hơn, có thêm gạch, xi
măng, tôn trong cấu kết kiến trúc (tường gạch, mái ngói,
mái đúc bằng, nền gạch...). Các dạng nhà phổ biến gồm: nhà
sắp đọi, chữ đinh, nhà chữ nhị, nhà chữ tam... Thường mỗi
nhà bố trí hài hòa, có sân, có vườn bao quanh.
Phú Hội là địa bàn có kiến trúc nhà cổ chiếm số lượng
nhiều ở huyện Nhơn Trạch. Phần lớn, các kiến trúc nhà cổ
bằng gỗ được tạo dựng khá sớm, từ cuối thế kỷ XIX trở
đi. Một số hộ gia đình có tiềm lực về kinh tế ở Phú Hội
đã xây dựng những ngôi nhà kiên cố, bằng gỗ quý. Qua
1  Trương Ngọc Tường (2004), Làng cổ truyền Nam Bộ qua Minh điều
hương ước, trong sách Nam Bộ Đất và người của Hội Khoa học lịch sử
TP.HCM, Nxb.Trẻ, tr.63-68.
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
những lần sửa chữa nhưng những nhà cổ Phú Hội vẫn bảo
tồn được dạng thức kiến trúc truyền thống, nội thất được
trang trí hoành phi, liễn đối, bài trí các vật dụng quý. Nhiều
thành tố kiến trúc gian cửa, cột, bao lam ở một số ngôi nhà
được chạm khắc, chạm trổ các đề tài mai điểu, tùng lộc, trúc
tước..., tinh tế, vừa có tính nghệ thuật vừa phản ánh những
ước vọng của con người. Một số kiến trúc nhà cổ tiêu biểu
phân bố trên địa bàn xã Phú Hội: ông Nguyễn Văn Canh,
bà Trần Thị Đấu, bà Nguyễn Thị Hiệp, Phạm Thị Khê, ông
Nguyễn Văn Lãng, ông Đào Trí Mỹ Nhân, bà Nguyễn Thị
Mười, ông Nguyễn Thanh Ra, ông Phạm Văn Sáng, bà Mã
Thị Tám, ông Nguyễn Văn Trương, bà Nguyễn Thị Xuyên
(ấp Phú Mỹ 2); ông Nguyễn Văn Khiêm (ấp Phú Mỹ 1); ông
Nguyễn Văn Hỡi, ông Nguyễn Phong Lưu, ông Lê Thanh
Thiện (ấp Đất Mới).
- Tín ngưỡng gia đình
Cư dân Phú Hội qua nhiều đời duy trì tục thờ cúng tổ
tiên, cha mẹ và người trong nhà qua đời. Trong gia đình,
người con sống biết ơn, nhớ đến tổ tiên và thờ tự qua hình
thức thiết lập bàn thờ trong nhà. Bàn thờ tổ tiên được bài trí
ở vị trí trung tâm, thường ở gian chính giữa của nhà. Tục thờ
bày tỏ lòng thành kính của người còn sống đối với các bậc
sinh thành trở lên khi họ đã qua đời; đồng thời với tín niệm
tổ tiên phù hộ đến người còn sống, con, cháu. Đây là mỹ tục
thể hiện lòng biết ơn, nhớ cội nguồn, nghĩa cử hiếu kính của
31

4.2 Page 32

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
con cháu đối với ông bà, cha mẹ khi họ đã qua đời. Trong
gia đình, nếu có người thân qua đời, tùy theo vai vế, thứ bậc
mà bài trí trên bàn thờ. Trong năm, một số gia đình còn tổ
chức lễ giỗ để nhớ những người đã qua đời với sự tham dự
của bà con, dòng họ. Trong gia đình, một số gia đình còn
duy trì thờ thần độ mạng với mong muốn được ban cho
bình an, sức khỏe. Các vị thần độ mạng chủ yếu là bà Quan
Âm, Quan Thánh thể hiện qua bài trí ở các trang thờ. Tục
thờ Trời thể hiện qua bàn thờ Thiên. Bàn thờ Thiên mỗi nhà
khác nhau, nhưng tựu chung, dễ nhận ra ở đặc điểm: bàn thờ
khá đơn giản với một cây trụ (gỗ, gạch), trên có bệ ngang
hình vuông (ván, gạch xây, xi măng...) lộ thiên, không vách
hoặc có vách lửng. Sau này, một số nơi xây vách và đặt mái
che (ván, tôn, ngói). Vị trí bàn thờ thường ở sân trước nhà,
mặt quay vào trong nhà hoặc trong phạm vi sân trước nhà.
Hiện nay, theo cấu trúc nhà ở khác nhau, địa điểm khác
nhau, nhiều nhà phố nên không có sân, trang thờ Thiên được
gắn trên vách hoặc một góc trước nhà hoặc trên tầng lầu.
Trong chu kỳ đời người, vào dịp quan trọng như sinh
con, thôi nôi, hôn nhân, tang chế vẫn còn duy trì những lễ
nghi. Những gia đình có tôn giáo tổ chức theo giáo nghi của
mỗi đạo. Người dân giữ tín ngưỡng truyền thống thực hiện
các lệ khá nhiều dù có những sự giản lược so với trước. Đối
với trẻ em, trong giai đoạn nuôi dưỡng, tổ chức cúng bà
mụ, đầy tháng, đặt tên, thôi nôi. Những người trưởng thành
khi xây dựng gia đình, tổ chức các bước thăm hỏi, dạm hỏi,
32

4.3 Page 33

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
rước dâu, ra mắt hai họ, trình tổ tiên và tiệc cưới. Trong tang
chế có những nghi tiết thực hiện cẩn trọng (đồ vật, phục
tang lễ theo thứ bậc, tổ chức cúng, sửa soạn thi thể, đồ liệm,
chọn quan tài, huyệt mộ, đặt linh tọa, linh sàng, phát tang,
phúng điếu, xây mộ...) cùng những điều kiêng kỵ khác.
Một số lệ cúng của gia đình được tổ chức vào dịp tết,
trong những ngày đầu tháng Giêng âm lịch. Tuy nhiên, các
lệ cúng này không còn phổ biến, được duy trì ở một số gia
đình được cho là còn giữ nếp xưa. Lệ cúng tết nhà vào ngày
mùng Ba tháng Giêng âm lịch. Mâm cơm được dọn lên với
những thức ăn do gia đình chuẩn bị (có thể chay hoặc mặn).
Các lễ vật cho lệ cúng còn có nhang, đèn, giấy tiền vàng,
hoa, nước trắng, trái cây, bánh tét... Mâm lễ đặt trên bàn
trước gian nhà chính, người lớn tuổi, uy tín thực hiện các
nghi cúng (thường đàn ông) với 3 tuần rượu, 1 tuần trà.
Trước đây, nhà xưa có văn cúng bằng chữ Hán, Nôm; nay
chỉ có lời khấn. Nội dung lời khấn nêu thời gian, khấn vái
đất đai dương trạch, thổ thần, thổ địa, ông bà tổ tiên phù hộ
cho gia đình luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, làm ăn phát đạt.
Trong lễ cúng, sau các nghi cúng, người cúng đem những
giấy tiền vàng dán lên cổng, cột, cửa và một số vật dụng
trong nhà... Sau đó, các thành viên trong nhà cùng ăn uống
vui vẻ.
Lễ cúng tết vườn tùy theo mỗi gia đình, thời gian được
chọn cúng trong các ngày đầu tháng Giêng. Mâm lễ vật gồm
bánh tét, bánh ít, hoa, trái, kẹo, mứt, 3 cây nhang, vàng bạc,
33

4.4 Page 34

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đèn, ly nước trắng, một ấm trà. Gia chủ cúng tại một địa
điểm trong vườn nhà và đọc lời khấn các thổ thần, thổ trạch
cầu an gia chủ, cho vườn. Sau đó, gia chủ đem vàng mã đi
dán trên một số cây gần nơi cúng. Trong cúng vườn, nhà nào
có nuôi trâu thì tổ chức mâm lễ vật cúng tại chuồng trâu (tết
chuồng, tết trâu). Gia chủ đọc lời khấn, cảm ơn trâu giúp đỡ
cho việc cày bừa trong năm qua và mong gia thần, thổ địa
cho trâu mạnh khỏe, tiếp tục giúp sức cho gia đình trong một
năm mới. Sau khi cúng, gia chủ dán giấy vàng trên sừng,
trên trán và đưa bánh tét cho trâu thể hiện tình cảm, cảm ơn
trâu đã giúp gia đình. Trong ngày mùng 3, 4 tháng Giêng
âm lịch, một số gia đình còn sử dụng giếng nước trong nhà
có tổ chức cúng giếng. Mâm lễ vật gồm giấy tiền, cặp đèn
cầy, chai rượu nhỏ và 4 ly (rượu, trà, 2 ly nước trắng) cùng
dĩa trái cây, bánh mứt... đặt gần giếng. Gia chủ rót rượu, trà,
thắp nhang khấn cúng, xin thần giếng luôn cho nước không
bao giờ cạn, luôn trong, sạch để gia đình sử dụng an khỏe,
không bệnh tật. Sau đó, đem giấy vàng dán trên thành giếng.
Những ngày đầu năm, một số gia đình làm nông đem lễ vật
ra cúng tại đám ruộng.
Lễ vật cúng ruộng như cúng vườn, thêm chén lúa, chén
gạo. Gia chủ rót rượu, trà và thắp nhang cầu khấn. Nội dung
lời khấn cảm ơn thần đất, thần ruộng đã cho mùa vụ bội thu
trong năm và tiếp tục mong các thần linh che chở, cho mọi
việc cày cấy, trồng tỉa được hanh thông, thời tiết tốt để mùa
sau thu hoạch tốt. Sau khi cúng, khi nhang tắt, chủ ruộng
34

4.5 Page 35

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
rải lúa và gạo xuống ruộng, đốt giấy tiền và đem mâm cúng
trở về.
- Tín ngưỡng cộng đồng
Tín ngưỡng, tôn giáo ở Phú Hội cũng khá đa dạng.
Trong đó, người có tín ngưỡng thờ tổ tiên chiếm tỷ lệ cao
nhất 80,78%, người theo đạo Công giáo chiếm 17,56%, đạo
Phật chiếm 1,39%, đạo Cao Đài chiếm 0,16%, đạo Tin lành
chiếm 0,09%. Với sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo, vùng
Phú Hội hình thành những cơ sở tín ngưỡng đáp ứng nhu
cầu của người dân địa phương. Bên cạnh những giá trị kiến
trúc là nhưng giá trị của tập tục, nghi thức tín ngưỡng tôn
giáo khá độc đáo.
Từ nơi khác đến Phú Hội sinh sống, những lớp di dân
ban đầu muốn được bình an trên vùng đất mới. Sự mong
muốn này thể hiện qua tín ngưỡng của cộng đồng ở từng
làng, thôn trước đây với sự ảnh hưởng của truyền thống
văn hóa trọng thần linh. Những miếu, đình được dựng lên
trên cuộc đất của làng, thôn được người dân lựa chọn kỹ
càng, có phong thủy tốt. Tín ngưỡng này được các lớp di
dân người Việt duy trì từ quê gốc và mang đến trên vùng
đất Đồng Nai, Nam Bộ. Trong tín niệm của người dân, cách
nghĩ đơn giản nhất là “xưa bày, nay theo” khi họ lập nơi
thờ thần Thành hoàng - vị thần linh tại địa bàn cư trú mới
với niềm tin thần bảo vệ cho những người cư trú trên làng,
thôn, xã, ấp. Tên gọi chung nhất mà người dân địa phương
35

4.6 Page 36

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
hay sử dụng “Thành Hoàng bổn cảnh”, vắn tắt hơn là “Thần
làng” với cách gọi cung kính là Ông, Đức Ông. Theo quan
niệm của người dân, vị thần được dân làng tôn thờ là phúc
thần công chính, quyền năng, hiển linh: ban cho người dân
cuộc sống bình yên, đất nước thái bình, thời tiết thuận hòa,
mùa màng tốt tươi... và cũng quở trách, hình phạt những ai
xúc phạm, sống không đạo đức. Thần Thành hoàng được
thờ trong chánh điện của đình. Vách chánh điện được bài trí
chữ Thần (chữ Hán: “”) với lối viết nét lớn, chữ to (đại
tự), màu vàng trang trọng. Trên khám thờ thần có Hoành phi
(chữ Hán) có nghĩa: “Hộ quốc bảo dân” (Bảo hộ cho nước,
che chở cho dân). Trong đình, một số liễn đối, hoành phi
được treo trên các hàng cột, khám thờ có nội dung ca ngợi
công đức, tài năng và sự hiển linh của thần.
Ban đầu, những miếu, đình được làm đơn sơ, từ
nguyên vật liệu như gỗ, tre tại chỗ. Sau này, đời sống dân cư
phát triển, miếu, đình được sửa sang, trùng tu, mở rộng với
những nguyên vật liệu bền, chắc hơn (gỗ quý, gạch, ngói, xi
măng...). Hàng năm, tại đình, miếu người dân tổ chức một
số ngày lễ, trong đó lễ Kỳ yên là lễ chính. Ba năm một lần,
tổ chức Đại lễ Kỳ yên. Mục đích lễ Kỳ yên/Cầu an nhằm tạ
ơn thần Thành hoàng bổn cảnh và cầu mong những điều tốt
đẹp. Qua những thời đoạn lịch sử, nhiều yếu tố xã hội đã tác
động, ảnh hưởng trên những cấp độ khác nhau. Môi trường
tự nhiên thay đổi, môi trường xã hội có những chuyển biến
về thể chế quản lý, sự du nhập của các tín ngưỡng, tôn giáo
36

4.7 Page 37

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
qua tiếp xúc văn hóa, xen cư nhiều thành phần tộc người,
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhiều yếu tố khác
đã làm cho cộng đồng dân cư của một đơn vị cư trú thay
đổi nhiều. Thế nhưng, tục thờ thần Thành hoàng và thiết
chế đình làng ở vùng Nam Bộ nói chung, Phú Hội vẫn duy
trì phản ánh sức sống của tục thờ trong cộng đồng dân cư.
Cùng phối thờ với thần Thành hoàng là những đối tượng mà
người dân thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước,
nhớ nguồn”: Tiên sư (các bậc có công dạy nghề, dạy chữ,
dạy lễ nghĩa...), Tiền hiền (thế hệ đi trước, những người có
công khai khẩn lập làng), Hậu hiền (những người có công
phát triển cơ nghiệp của làng xã như hiến đất xây cầu, đắp
đường, mở chợ...).
Trên địa bàn xã Phú Hội có hai đình Phú Mỹ và Mỹ
Hội. Tên gọi Phú Mỹ và Mỹ Hội là dấu chỉ về hai làng cổ
của người dân từ buổi khai khẩn lập làng.
- Đình Phú Mỹ ở ấp Phú Mỹ II xây dựng đầu thế kỷ
XIX trong thời kỳ vùng đất Phú Hội còn hoang sơ.
Thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh. Bài trí trung tâm
chánh điện với chữ Hán đại tự, màu vàng trong khám thờ
sơn đỏ. Theo các bô lão làng Phú Hội, đình Phú Mỹ trước
đây có sắc phong nhưng do chiến tranh nên sắc thất lạc.
Bài trí trong nội thất chánh điện có các ban thờ: Tả
ban, Hữu ban, Bạch Mã Thái giám, Ngũ cốc, Ngũ thổ. Bài
trí ở hậu điện có Tiền hiền, Hậu hiền.
37

4.8 Page 38

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Trong phạm vi di tích, có các miếu, đàn thờ: Tiên sư,
Thần Nông, Chiến sĩ trận vong, Ngũ Hành, Sơn quân. Phía
trước đình về bên phải có miếu thờ Tiên sư (dời chuyển
vị trí từ nơi khác đến). Đặc biệt, trong di tích, có thờ Chủ
tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua ba bức hoành phi treo trong
chánh điện. Sau này, có tượng Bác Hồ phía trước chánh
điện do Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng. Ngày
nay, đình Phú Mỹ gắn với các hoạt động về nguồn, tìm hiểu
truyền thống văn hóa, yêu nước của người dân địa phương,
học sinh.
Vào năm 1802, ông Nguyễn Văn Miên vận động người
dân dựng miếu thờ thần tại phần đất cao Ông Bồn (cánh
đồng Dinh Ông). Năm 1820, ông Nguyễn Văn Sắc (con trai
của ông Nguyễn Văn Miên) cùng người dân dời ngôi miếu
lên vùng đất có địa thế cao hơn và mở rộng ngôi miếu, cải
thành đình. Năm 1832, dân làng chuyển dời đình về ngọn
đồi gần khu dân cư, có địa thế trên cao nhìn xuống, chung
quanh có nhiều cây cổ thụ. Mỗi lần chuyển dời, đình được
mở mang rộng rãi, xây dựng bằng vật liệu kiên cố; đặc biệt
là những là thành tố trong kiến trúc bằng loại gỗ quý khai
thác trên địa bàn. Đình Phú Mỹ đã trải qua nhiều lần trùng
tu, tôn tạo. Kiến trúc hiện tồn của đình Phú Mỹ gồm 3 gian,
bố trí thứ tự: tiền đình, chánh điện và nhà khách. Chánh
điện kiểu nhà 3 gian hai chái. Hàng năm, đình Phú Mỹ tổ
chức các lễ Thượng nguyên (rằm tháng Giêng), Lễ Trung
38

4.9 Page 39

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nguyên (rằm tháng Bảy), Lễ Hạ nguyên (rằm tháng Mười).
Lễ Kỳ yên là lễ chính tổ chức vào ngày 14, 15 tháng Mười
Một âm lịch cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi,
quốc thái dân an. Đặc biệt, tại đình Phú Mỹ, trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ, người dân địa phương tưởng nhớ
Bác Hồ qua đời, đã làm ba bức hoành phi để thờ vọng, tránh
sự theo dõi lúc bấy giờ của chính quyền Sài Gòn. Ba bức
hoành phi có nội dung “Hồ nhiên nhi thiên”, “Chí vọng
thâm ân”, “Minh hoài hậu đức” riêng rẽ nhưng ghép ba chữ
đầu là tên gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh1.
- Đình Mỹ Hội được xây dựng cách nay khoảng 200
năm để thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh; các vị Tiền hiền,
Hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ của làng xã. Ba năm
đáo lệ, tại đình tổ chức hát bội là một đại lễ thu hút đông đảo
người dân tham gia. Tại đình Phú Hội còn tổ chức lễ cúng
thần Hổ vào ngày Rằm tháng Ba âm lịch - một dấu chỉ trong
tín ngưỡng thời khai phá của vùng đất này.
Cư dân Phú Hội có tín ngưỡng thờ Bà. Tục thờ Bà
có nguồn gốc từ xa xưa trong cộng đồng người Việt; trong
đó ở các làng thường lập miếu thờ Bà Ngũ Hành. Theo tín
niệm của người xưa, Ngũ Hành là biểu tượng cho 5 yếu tố
cơ bản tạo nên vũ trụ; gồm: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thủy
1  Đình Phú Mỹ nay thuộc xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, được UBND
tỉnh Đồng Nai xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh
(QĐ số 3525/QĐ.UBND ngày 10-10-2005).
39

4.10 Page 40

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
(nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất). Trong dịch lý, sự vận hành của
các chất cơ bản này đã sản sinh ra vạn vật. Tính chất sinh
sản là biểu tượng của nữ giới - nên dân gian tín niệm là các
nữ thần: Ngũ hành nương nương hay Năm Bà Ngũ Hành: bà
Kim, bà Mộc, bà Hỏa, bà Thủy, bà Thổ.
- Miễu Giang Lò ấp Xóm Hố được xây dựng trên 100
năm thờ Ngũ hành nương nương. Trong phong trào yêu nước
đầu thế kỷ XX, đây là cơ sở hoạt động của những thành viên
tại địa bàn Nhơn Trạch. Sau sự kiện hội kín cùng nổi dậy
đánh Pháp trong phong trào chung ở Nam Bộ, nhiều thành
viên hy sinh vì đại cuộc. Hàng năm, tại miễu tổ chức lễ vía
Bà Ngũ Hành và cúng giỗ 22 vị Thiên Địa hội vào Rằm
tháng 2 âm lịch. Từ tín ngưỡng dân gian của cộng đồng,
miếu gắn kết cộng đồng qua việc thờ cúng những vị có công
với làng xã, đất nước.
- Dinh Ông Gốc ấp Phú Mỹ II xây dựng năm 1911, thờ
chính là Mộc Long chi thần tức thần Ông Gốc. Trong miếu
có phối thờ Thần Nông. Cơ sở tín ngưỡng này phản ánh tín
niệm của cư dân địa phương về một thời khai phá vùng đất
vừa có ruộng, vừa có rừng Phú Hội. Lễ cúng Ông Gốc được
tổ chức vào ngày 12 tháng Chạp hàng năm với sự tham dự
của người dân địa phương. Lễ vật thịt gồm heo sống, hoa
quả, hương đăng, trà, rượu và các món ăn. Nghi thức theo lệ
cúng đình và mục đích là cầu an cho cộng đồng.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Nhà Vỏ (Dỏ) ấp Phú Mỹ II chưa rõ năm xây dựng
và được cư dân địa phương duy trì các lệ cúng trong năm,
tưởng nhớ đến những người có công với làng xóm và
cầu an.
Bên cạnh các đối tượng thờ chính trong đình, miếu,
các đối tượng phối thờ gồm có Thần Nông (ban thờ đặt
trong phạm vi chung, phía trước) và miếu thờ Sơn Quân.
Đây là hai vị được tôn làm thần và thờ phụng gắn liền với
hoạt động của người dân khi đến Phú Hội: làm ruộng và
khai thác lâm sản.
Thần Nông là đối tượng được thờ hầu hết ở các đình
ở Nam Bộ, Đồng Nai và Nhơn Trạch. Đây là vị thần được
xem có nguồn gốc xa xưa, dạy con người biết làm ruộng để
sinh sống, ban cho lương thực. Người dân ở Phú Hội từ buổi
đầu sinh sống, khai phá các vùng đất trồng lúa, trồng cây
lương thực. Hoạt động nông nghiệp chịu tác động từ nhiều
yếu tố của thời tiết, sự chăm sóc của con người nhưng trong
yếu tố đảm bảo cho mùa màng, họ tín niệm vào Thần Nông
để có sự bảo vệ. Cách bài trí thờ Thần Nông thường là một
bệ được xây bằng gạch, xi măng cao vừa phải ở phía trước
hoặc một bên của sân đình, không có mái. Có nơi trên đàn
thờ ghi chữ Hán hay chữ Việt có nội dung: Đàn Xã tắc hay
thần Nông. Nghĩa chữ Hán: Xã là thần Đất (thần Thổ Địa),
Tắc là thần Lúa.
41

5.2 Page 42

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Sơn Quân (nghĩa chữ Hán: Sơn là núi, quân là vua).
Đối tượng thờ là Hổ/Cọp nhưng tôn lên hàng thần linh với
cách gọi Thần, Ông, Ngài, Chúa Sơn Lâm, Mãnh Hổ đại
tướng. Tục thờ này khá phổ biến từ di dân người Việt đến
Nam Bộ khai khẩn vốn nổi tiếng “dưới sông sấu lội, trên
rừng cọp um”. Khi khai khẩn đất rừng canh tác, tìm nguồn
thức ăn của núi rừng, nhiều người đã bị thú dữ, trong đó có
cọp tấn công, giết chết, ăn thịt. Trước hiện tượng ấy, người
dân tin rằng cần phải thờ và tôn cọp/hổ là chủ rừng, khi làm
ăn thì khấn cầu để không bị quấy nhiễu, sống yên ổn. Ở
Phú Hội còn lưu truyện tích đánh nhau với thú dữ giữa ông
Từ của đình và cọp để bảo vệ dân lành. Một số miếu thờ
cọp có khắc chữ Hán Sơn Quân, có đắp nổi hoặc tượng của
Hổ thần.
- Thiết chế tôn giáo
Cư dân Phú Hội đa dạng về tôn giáo (Phật giáo, Công
giáo và Tin lành) và trên địa bàn hình thành những thiết chế,
đảm bảo sinh hoạt trải qua nhiều thời kỳ. Người dân có đạo
chiếm tỷ lệ 23,22% (Thiên Chúa giáo chiếm 22,63%, Phật
giáo chiếm 0,55%, Tin lành 0,04%).
Về Phật giáo, các nhà sư qua đến Đồng Nai và truyền
bá đạo khá sớm. Người dân Phú Hội tiếp nhận đạo Phật và
thực hành những nghi lễ tại nhà cũng như tại chùa. Hiện
nay, xã Phú Hội có những cơ sở tôn giáo:
42

5.3 Page 43

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Chùa Phú Quang trước đây có tên gọi là Đức Tu tại
ấp Phú Mỹ 2 khởi dựng vào khoảng năm 1957 với dạng kiến
trúc nhà ống, trang trí theo lối đắp nổi và cẩn gốm. Chánh
điện bài trí theo Phật giáo Bắc Tông. Đây là công trình kiến
trúc Phật giáo ra đời sớm nhất và đẹp nhất ở Phú Hội, đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương. Năm
1990, chùa có tên là Đức Quang.
- Tịnh thất Thọ Quang ấp Đất Mới được xây dựng vào
khoảng năm 1979, có kiến trúc đơn giản theo kiểu nhà ống,
mái lợp tôn, tường gạch. Bên trong chánh điện bài trí tượng
Thích Ca, Quan Âm, Thế chí Tiêu diện, Hộ pháp, Địa tạng
và Bồ đề Đạt Ma.
Về Công giáo, đạo được truyền bá đến Đồng Nai khá
lâu, trong đó có vùng Nhơn Trạch. Trước năm 1879, đã có
những người Công giáo sinh sống tại khu vực Gò Nổng,
Mỹ Hội. Linh mục Đoàn Công Triệu họ đạo Tha La quy
tụ những tín hữu đang sống tại Gò Nổng để lập nên Trại
đạo Gò Nổng và xây dựng một nhà nguyện. Năm năm sau,
Trại đạo Gò Nổng chính thức được nâng lên thành Giáo xứ
với tên gọi Mỹ Hội. Linh mục Henri Louis Lemée được bổ
nhiệm phụ trách Giáo xứ trong tư cách chánh xứ tiên khởi,
đồng thời được cử coi sóc những họ đạo lân cận: Phước Lý,
Bình Quới và Long Thành. Nhà thờ Mỹ Hội khởi công xây
dựng và khánh thành năm 1893. Năm 1958, nhà thờ Mỹ
Hội tu sửa. Kiến trúc nhà thờ có dạng thức nhà ống, có năm
43

5.4 Page 44

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
gian (2 gian là cung thánh, 3 gian nơi giáo dân dự lễ), cột
bằng gỗ, mái lợp ngói vảy cá, nền lát gạch. Trong năm, tại
nhà thờ, tổ chức nhiều nghi lễ: nghi lễ hàng tuần và những
lễ trọng (kỷ niệm sự Thương khó, Phục sinh và giáng sinh
của Thiên Chúa). Đây là một trong những nhà thờ thành lập
sớm trên vùng đất Nhơn Trạch, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
cho giáo dân.
- Địa danh, đặc sản
Phú Hội là một mỹ tự với hàm nghĩa là nơi tập trung
của sự giàu sang, thịnh vượng. Địa danh này đi vào trong
những câu ca được lưu truyền rộng rãi:
- Nước Mạch Bà, Trà Phú Hội
Hay:
- Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân
Cá buôi, sò huyết Phước An
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Rạch Nhum
- Ai về Phú Hội, Phước Thiền
Chôm chôm xóm Hố, sầu riêng xóm Vườn.
Cùng với những địa danh An Lợi, Long Tân, Phước
An, Phước Khánh, Phước Thiền, Rạch Nhum... vùng đất
Phú Hội với các làng, thôn xóm Hố, xóm Vườn đã góp phần
44

5.5 Page 45

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
làm nên những đặc điểm lý thú, độc đáo của vùng đất phía
hạ nguồn sông Đồng Nai trước khi chảy ra các cửa biển.
Nhơn Trạch với điều kiện địa lý đặc thù thường xuất hiện
những mạch nước ngầm tự phun, lộ thiên tạo nên những
mạch nước trong và mát. Người dân địa phương khai thác
nguồn nước này một cách thuận lợi để sử dụng cho sinh hoạt
hay tưới tiêu. Tại Phú Hội, những loại cây trồng nhờ mạch
nước này xanh tươi quanh năm. Có thể do thổ nhưỡng và
nguồn nước mạch này mà cây trà khi trồng tại Phú Hội cho
lá xanh bóng, mượt mà. Cách thức chế biến trà của người
dân Phú Hội rất đơn giản, thủ công: hái lá, vò bằng tay, phơi
khô, không tẩm hương liệu thế nhưng khi đun nấu sử dụng,
trà cho hương vị thơm ngon. Giống trà Phú Hội nấu đem
trồng nơi khác thì không được như vậy. Vì vậy, những câu
ca trên cho thấy Phú Hội nổi tiếng về loại cây trà với những
sản phẩm chế biến độc đáo không chỉ trong truyền khẩu mà
còn trở thành một đặc sản của Nhơn Trạch. Bên cạnh đó, so
với các nơi khác trong vùng, Phú Hội còn nổi tiếng với các
loại trái cây danh tiếng của miền Đông Nam Bộ như: chôm
chôm, sầu riêng được trồng ở xóm Hố, xóm Vườn.
Xã Phú Hội được hình thành từ ba làng chính: Mỹ
Khoan, Mỹ Hội, Phú Mỹ. Đây là những địa bàn được khai
phá sớm trên vùng đất Nhơn Trạch. Ban đầu, những cư dân
mới đến thường đặt tên cho những vùng đất gắn liền với
45

5.6 Page 46

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đặc điểm nổi trội của chúng như địa hình, thực vật... Dần
dà, sự khai mở làng xóm gắn với quá trình phát triển của
dân cư, tên gọi có những thay đổi và thể hiện những khát
vọng, điều mong muốn tốt lành của con người. Sau này, khi
chính quyền đương thời thiết lập hành chính một cách quy
củ, thường kế thừa trên cơ sở cư dân tại chỗ để định danh cụ
thể. Thời nhà Nguyễn, địa bàn Biên Hòa - Đồng Nai vốn là
vùng đất mới nên chính quyền sử dụng những mỹ tự để đặt
tên thể hiện sự mong muốn một vùng đất ổn định, phát triển,
tốt lành, giàu có, sung túc, bền vững lâu dài.
Đầu thế kỷ XIX, tên làng xã ở Biên Hòa thường bắt
đầu từ các chữ: Tân, Bình, Phước, Long, An, Vĩnh, Mỹ,
Xuân, Chánh, Hưng ... Các tên làng của vùng đất Long
Thành - Nhơn Trạch hiện nay vốn thuộc tổng Thành Tuy
Thượng, Thành Tuy Hạ thì thấy xuất hiện các mỹ tự: Long,
Phước, Tân, Lộc, Khánh, Phú, Lạc, Đức, An, Lương, Mỹ,
Thiền, Thiện, Thọ, Lai, Bình, Qưới,... Tên làng có chữ
Phước chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Chữ Tân chiếm tỉ lệ ít nhưng
là chữ đứng sau. Điều này phản ánh, cho thấy những làng ở
vùng Nhơn Trạch - Long Thành được khai phá sớm do cư
dân đi từ cửa biển tiến vào vùng sâu của vùng đất Biên Hòa
xưa...Vì vậy, sau khi những người dân đến lập làng theo thói
quen đi từ cửa sông lên, người dân khai phá, chọn những địa
điểm lập làng từ miệt dưới của sông Đồng Nai và các chi lưu
46

5.7 Page 47

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
trước. Sau đó, khi có điều kiện các cư dân miệt dưới phát
triển hoặc các nhóm cư dân khác tiến dần lên phía trung và
hạ lưu hoặc tiến vào đất liền rộng hơn để khai mở tiếp tục.
Những địa điểm Mỹ Khoan, Phú Mỹ, Mỹ Hội là cơ sở hình
thành xã Phú Hội đã ổn định, phát triển. Do sự phát triển của
cư dân cùng với việc xếp đặt hành chính quản lý, nên các
làng, thôn, ấp của Phú Hội trước đây có những biến động
trong từng giai đoạn. Không lý giải theo chiết tự nhưng dân
gian vẫn có cách hiểu đơn giản nhất về ngữ nghĩa của tên
làng, thôn, ấp nơi mình sinh sống, thể hiện những khát vọng
về tương lai và đều mong muốn tốt đẹp. Mỹ có nghĩa đẹp
đẽ, hàm chứa cả điều tốt lành đi theo, Khoan với nghĩa sự
bao dung, Phú với sự thịnh vượng, giàu sang, Hội nghĩa tập
trung, tụ lại. Điều đặc biệt là ở các địa danh của các thôn để
hình thành xã Phú Hội là sự xuất hiện của chữ Mỹ. Điều này
có thể phản ánh đây là vùng đất đã được tạo dựng với bao
điều đẹp đẽ sau một thời gian của những lớp cư dân đến sinh
sống, tạo dựng và cũng là sự mong muốn, mơ ước, hướng
đến về điều tốt đẹp hơn nữa, sự thịnh vượng, tính khoan
dung hội tụ lâu dài ở địa phương..
Sông Đồng Môn là sông lớn của huyện Long Thành
- Nhơn Trạch, chảy qua xã Phú Hội. Sông Đồng Môn gắn
liền với những sự kiện lịch sử và nó cũng đi vào trong câu
ca dân gian:
47

5.8 Page 48

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Nước sông Đồng Nai sóng dồi lên xuống
Cửa Đồng Môn mây cuốn cánh buồm xuôi
Bậu với qua hai mặt một lời
Trên có trời, dưới có đất
Nguyện sông cạn non dời cũng chẳng xa.
Hay:
- Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bã
Thuốc Ðồng Môn thuốc hút phà hơi
Trầu nồng thuốc thắm ai ơi
Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.
Câu ca thật thú vị khi mượn những hình ảnh “trầu nồng
Đồng Nai” và “thuốc thắm Đồng Môn” để nói lên chuyện
duyên tình nghĩa nặng của con người. Một số địa danh khác
ở Phú Hội phản ánh nhiều mặt của vùng đất này. Địa danh
phản ánh sự phong phú của thực vật của địa phương như:
Bến Cây Điệp, bến Cây Me, đường Cây Dầu, hóc Cây Da,
hố Cây Ư... Địa danh phản ánh môi trường tự nhiên có Bàu
Cá, Rạch Cát, Xóm Hố, bến ghe nổng Giang Lò. Địa danh
gắn liền với tên gọi dân giã về một nhân vật gắn liền với
vùng đất như: xóm Hố Bà Đại, bến ghe Dinh Ông, rạch Ông
Hương, bến đò ông Tư Chón. Địa danh gắn với cơ sở tín
ngưỡng có Rạch Miễu.
48

5.9 Page 49

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Quá trình cộng cư của nhiều thế hệ dân cư tại Phú Hội
của nguồn gốc nhiều lớp cư dân đã tạo nên cho vùng đất
này những sắc thái văn hóa đa dạng. Trải qua nhiều biến
động của lịch sử, môi trường tự nhiên... đã có những tác
động nhất định, làm biến đổi nhiều yếu tố song những nét
đẹp trong đời sống cư dân của xã Phú Hội vẫn được duy trì,
bảo tồn. Những giá trị di sản văn hóa được phát huy trong
đời sống hiện tại, trong đó có đình Phú Mỹ được xếp hạng
di tích quốc gia và nhiều thiết chế vẫn duy trì những lễ hội
tín ngưỡng, tôn giáo mang tính gắn kết cộng đồng cư dân.
Một số nghề truyền thống được duy trì và ngày nay ứng
dụng khoa học kỹ thuật, phát triển theo chiều kích mới. Với
truyền thống yêu nước và tinh thần bất khuất, nhân dân Phú
Hội cùng đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng quê hương
giàu đẹp, văn minh.
49

5.10 Page 50

▲back to top


Chương II
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH TỪ KHI CÓ ĐẢNG
ĐẾN Cách mạng Tháng Tám (1930 -1945)
1. Phong trào đấu tranh yêu nước trước năm 1930
Phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX ở Đồng Nai nổ ra và thu hút người dân tham gia. Cuộc
khởi nghĩa của Trương Định có tác động mạnh đến người
dân Đông Nam Bộ, đặc biệt vùng Long Thành, Nhơn Trạch
khi địa bàn nối liền với vùng sông rạch phía Nam là khu vực
hoạt động của nghĩa quân. Sau này, khi thực dân Pháp cơ
bản bình định các phong trào yêu nước vùng Nam Bộ, người
dân tham gia trong các hội yêu nước bí mật gọi là hội kín để
tránh sự phát hiện của thực dân Pháp.
Ở Đồng Nai có một số hội kín yêu nước: Hội kín ở
Long Thành do nhà sư Huyền Vi (Trần Văn Tấn) trụ trì chùa
Giác Lâm tổ chức, đã giết tri phủ Long Thành là Trần Bá
Hựu vào năm 1885. Chính quyền thực dân Pháp bắt những
thành viên của hội kín ở Long Thành, xét xử tại tòa đại hình
Bình Hòa (Gia Định), nhà sư Huyền Vi bị kết án tử hình
và các thành viên: Phạm Trung Báo (Huỳnh Tấn Thanh),
Nguyễn Văn Thượng, Lâm Văn Tôn khổ sai, chung thân1.
1  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3 - Lịch sử, Xí nghiệp in
Đồng Nai, Nhà in Thông tấn xã Việt Nam xuất bản, tr.192.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Đây là phong trào yêu nước có tác động, ảnh hưởng tích cực
đến người dân Phú Hội nói riêng và Long Thành nói chung
trong thời kỳ đầu chống Pháp xâm lược.
Hội kín của cụ Đoàn Văn Cự có căn cứ tại Bưng Kiệu,
Suối Linh (khu vực Long Bình hiện nay). Hội kín chiêu
mộ những người yêu nước, sắm sửa vũ khí, tập luyện võ
nghệ chờ thời cơ đánh Pháp. Năm 1905, thủ lĩnh Đoàn Văn
Cự làm lễ tế và chuẩn bị cho nghĩa quân tấn công quân
Pháp. Chính quyền thực dân Pháp đưa quân bao vây căn cứ
Suối Linh và đàn áp. Đoàn Văn Cự và các nghĩa quân chống
trả và bị lính Pháp sát hại. Hội kín với tên gọi Lâm Trung
trại được hình thành ở Gò Mọi (nay thuộc vùng Thiện Tân,
huyện Vĩnh Cửu) do những người có chí khí, giỏi võ tập hợp
lại, chiêu tập nghĩa quân, tích trữ lương thực để kháng Pháp.
Đầu năm 1916, nghĩa quân của Lâm Trung trại tổ chức tấn
công các cơ sở của Pháp (trụ sở hội tề, thành Săng Đá, phá
khám đường). Sau cuộc nổi dậy của hội kín, chính quyền
thực dân truy lùng và dùng nhiều thủ đoạn bắt những thủ
lĩnh của hội đưa ra tòa án binh xét xử. Theo bản án của Tòa
án binh ngày 27-4-1916, 66 thành viên của hội kín Biên
Hòa được xét xử và bị kết án: xử tử 9 người, xử tử vắng
mặt 8 người, khổ sai chung thân 11 người, 20 năm khổ sai 2
người, 10 năm tù 1 người1.
1  Trần Thái Bình (1998), Cuộc nổi dậy ở Biên Hòa năm 1916, Tạp chí
Xưa & nay, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, số 52B-6-1998), tr.17.
51

6.2 Page 52

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Các hội kín của tỉnh Biên Hòa dù bị đàn áp nhưng đã
cổ vũ cho tinh thần yêu nước của người dân địa phương.
Trong cuộc sống cơ cực và bị áp bức bởi thực dân Pháp, họ
sẵn sàng vùng dậy khi có cơ hội, dù bị đàn áp với những
bản án nặng nề của chính quyền thực dân nhưng tinh thần
yêu nước, bất khuất của các thành viên hội kín luôn cổ vũ.
Vì vậy, sau này, khi tổ chức hội kín yêu nước, kháng Pháp
do Phan Phát Long1 chủ trương được phát động mạnh mẽ
ở Sài Gòn, người dân vùng Nhơn Trạch, Long Thành tiếp
tục ủng hộ, tham gia. Các xã ở Nhơn Trạch, Long Thành có
tổ chức hội kín hoạt động ở một số địa bàn với hình thức
liên lạc bằng ám hiệu, mật hiệu với nhau hoặc tập trung với
danh nghĩa của các hoạt động tín ngưỡng thờ cúng cộng
đồng trên địa bàn (hội miễu, hội đình). Vùng Nhơn Trạch,
Long Thành có các tổ chức trong hội kín hoạt động, chia
theo cụm: Cụm Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước
Kiển do cụ Hồ Văn Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm
Hố; Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước do cụ Lê Lưu
Di phụ trách, điểm liên lạc tại đình Long Phước; Cụm An
Hoà Hưng, Phước Tân, Tam Phước, Tam An, An Lợi do cụ
Phan Văn Tập phụ trách, điểm liên lạc tại đình Tam Phước;
Cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph, Lộc An, Bình Sơn
do cụ Huỳnh Thanh Quang và Trần Nghĩa Khánh phụ trách,
1  Vào năm 1913, Phan Phát Sanh/Phan Xích Long, 17 tuổi, tự xưng con
vua Hàm Nghi, cho in truyền đơn rải khắp Sài Gòn, Chợ Lớn kêu gọi dân
chúng nổi lên chống Pháp. Phan Phát Sanh bị mật thám Pháp bắt, kết án
chung thân khổ sai, giam tại Sài Gòn.
52

6.3 Page 53

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
điểm liên lạc tại khu Giàu Ba; Cụm Phú Hữu, Phước Khánh,
Giồng Ông Đông do cụ Nguyễn Xuân Sáng điều khiển, điểm
liên lạc tại Phú Hữu; Cụm Phước Long, Phước Thọ, Phước
An do cụ Đặng Phùng chỉ huy, điểm liên lạc tại Phước An.
Để tránh sự theo dõi của chính quyền thực dân, những
thành viên hội kín tập trung công khai vào ngày miễu tổ
chức cúng với sự tham gia của nhiều người, qua đó nắm bắt
tình hình, chủ trương. Việc liên lạc, xác định những thành
viên trong tổ chức hoặc ngầm báo cho biết tình hình qua các
ám hiệu cụ thể. Để nhận diện có phải là thành viên trong hội,
khi gặp nhau một người làm bộ bâng quơ, chỉ tay lên trời
nói:“Mây vẫn nặng nề”. Nếu là thành viên của hội sẽ hiểu,
chỉ tay xuống đất, trả lời: “Cơn giông sắp nổ”. Hoặc khi
cần liên lạc, gặp nhau để chuyển tải chủ trương thì hội viên
mang theo cây dù với những ám hiệu để biết:
Dù mang bên tả, đảng viên
Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà.
Dù mang cái móc trở ra
Bàn sơ chút việc ghé qua đi liền.
Dù mang cái móc trở vô
Phải lo cơm nước với đồ nghỉ ngơi1.
1  Theo Trần Hiếu Thuận (Hoàng Thơ) - nhà nghiên cứu Văn hóa dân
gian, đã mất, được sử dụng trong công trình, Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr. 65.
53

6.4 Page 54

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Trong phong trào hội kín yêu nước, cụm Phú Hội,
Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiển có nhiều hoạt động nổi
trội, đông hội viên, nội quy, quy ước sinh hoạt, liên lạc bài
bản. Nòng cốt là các thành viên: Nguyễn Văn Nguyên (sinh
1885) Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Sáng, cả Tập, cả
Công, Tư Lân ... Hội kín hoạt động suốt một dải từ Lương
Thiện, Phước Lý, Phước Khánh, Bình Quới tới Phước An,
tuyên truyền yêu nước, bày cho đông đảo người nghèo cách
chống sưu cao thuế nặng, chống sự bóc lột của bọn chủ điền
tham lam. Trụ sở lúc đầu đặt tại hốc Cây Da thuộc ấp Xóm
Hố xã Phú Hội. Sau thấy họp ở đây không được tiện, dễ bị
lộ nên tổ chức quyết định xây dựng một miễu ở gò cao giáp
ranh xã Long Tân và Phú Hội, dưới hình thức là miễu Bà
(Ngũ Hành).
Trung tuần tháng 2-1916, các tổ chức hội kín ở các
tỉnh Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa, Chợ Lớn... kéo
về Sài Gòn bí mật bố trí, tiếp cận các mục tiêu, trong đó
có khám đường Sài Gòn, nhằm giải cứu Phan Phát Long
và những người yêu nước bị giam cầm tại đây. Cùng với
cuộc tấn công phá khám lớn Sài Gòn, nghĩa quân ở các địa
phương Nam Kỳ cũng nổi dậy tấn công vào chính quyền
Pháp. Sau khi làm thất bại cuộc tấn công vào khám đường
Sài Gòn, chính quyền thực dân Pháp truy lùng, khủng bố
mạnh mẽ các tổ chức hội kín yêu nước ở Nam Kỳ. Những
thành viên của hội kín tại Long Thành như ông Tiều, ông
Quý, ông Dệch bị Pháp bắt, một số thành viên khác “mai
danh ẩn tích” tránh sự truy lùng. Tổ chức hội kín ở Phú
54

6.5 Page 55

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Hội nói riêng, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa tan rã. Các thành
viên hội kín yêu nước ở Phú Hội hy sinh, được người dân
thờ tại miễu Bà (đồi Giang Lò), gồm: Nguyễn Tử Cang, Hồ
Văn Tỉnh, Hồ Văn Thái, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn
Phạch, Nguyễn Văn Trị, Lâm Văn Chấp, Thái Văn Nhị,
Đào Văn Triệu, Huỳnh Văn Đặng, Phan Văn Ngãi, Lê Văn
Quí, Nguyễn Văn Đột, Huỳnh Văn Phách, Huỳnh Văn Hiệp,
Quách Văn Súng, Trần Văn Đông, Đặng Văn Nghi, Lê Văn
Truyền, Lê Văn Đủ, Võ Văn Phò, Hồ Minh Quang.
Trong dân gian, có nơi vẫn gọi các hội kín yêu nước
này là tổ chức Thiên địa hội do thấy có những nét giống với
tổ chức Thiên Địa hội ở miền Nam Trung Quốc. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng, các hội kín ở Nam Kỳ từ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX: không mang tên gọi thống nhất mà có
khá nhiều tên gọi khác nhau. Tổ chức hội cũng không có
một hệ thống trên dưới nhất định, mà thường thường hoạt
động riêng rẽ, có liên lạc ngang với nhau cho đến khi nào
nổi lên một người hay một số người uy tín tổ chức ra một
hệ thống dọc nhằm sử dụng các hội lẻ tẻ này như một lực
lượng yêu nước mạnh mẽ. Điều này phản ánh rõ trong các
tổ chức hội kín yêu nước ở Long Thành, Biên Hòa lúc bấy
giờ (Hội kín Đoàn Văn Cự, Hội kín Lâm Trung Trại...) bởi
hội kín yêu nước của nhân dân Nam Kỳ trong giai đoạn này
đơn giản hơn tổ chức Thiên Địa hội bên Trung Quốc. Trong
một số hoạt động của hội có những hành vi được thực hiện:
lấy máu ăn thề, nguyện tuyệt đối trung thành với nhau, với
55

6.6 Page 56

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
hội và qua thử thách xem có đủ can đảm không. Việc ăn thề
mang tính chất thần bí. Người của hội lại tin rằng bùa chú
có thể tăng thêm sức mạnh của con người chiến đấu. Song
trong hội kín Việt Nam không hề có đẳng cấp với tính chất
phong kiến và tôn giáo...1. Những thành viên của hội kín yêu
nước tại Phú Hội nói riêng, ở Long Thành, Biên Hòa trong
giai đoạn này thể hiện lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh
bất khuất, chấp nhận hy sinh để đánh đuổi kẻ thù xâm lược
là thực dân Pháp.
2. Đấu tranh cách mạng từ khi có Đảng đến Cách
mạng Tháng Tám (1930 - 1945)
Trong chính sách khai thác thuộc địa, thực dân Pháp
mở nhiều đồn điền trồng cao su trên vùng đất đỏ bazan của
tỉnh Biên Hòa (Dầu Giây, Cam Tiêm, Bình Sơn, An Lộc,
Hàng Gòn,...). Từ Long Thành đi Nhơn Trạch, dọc tỉnh lộ
17, một số cố đạo người Pháp lập hai sở cao su: sở cao su
Ông Cố ở xã Phú Hội, sở Tân Tường ở xã Phú Thạnh và
theo tỉnh lộ 19 có sở Nguyễn Dưỡng, sở Pê Ra. Để có nguồn
nhân lực trong các đồn điền, Pháp thực hiện chiêu mộ người
dân từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào với chế độ giao
kèo đem lại nhiều bất lợi cho người làm công2. Đẩy mạnh
1  Trần Văn Giàu chủ biên, nhiều tác giả (1987), Địa chí Văn hóa Thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr.268.
2  Những đợt tuyển dân từ miền Bắc, miền Trung vào trong các đợt đầu
được gọi là dân công tra. Công tra là phiên âm từ tiếng Pháp Contrat,
nghĩa là giao kèo (giao kèo lao động có thời hạn, thường là 3 năm. Người
dân hay dùng từ mộ phu - chiêu mộ những người làm trong đồn điền cao su.
56

6.7 Page 57

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
khai thác nguồn vàng trắng, các tư bản Pháp mở rộng vùng
cao su trên địa bàn tỉnh Biên Hòa. Vùng Long Thành thành
lập thêm nhiều sở cao su (Héléna, Revertiga, De Jorge...).
Đời sống của người làm trong các sở cao su bị chèn ép bởi
những quy định ngặt nghèo, điều kiện sống không đảm bảo,
dịch bệnh, bị cúp phạt, bị đánh đập... bởi những chủ Tây
hung ác, những người điều hành công nhân đồn điền (xu,
cai, ký, xếp). Cảnh cơ cực của người công nhân trong sở cao
su trên vùng đất Biên Hòa xưa được lưu truyền qua những
“câu thơ” đầy bất lực1:
Nam Kỳ lắm hãng cao su
Đi sương về mù khổ lắm trời ơi!
Thằng Tây, thằng Đội, thằng Cai
Cướp vợ bằng búa, giết người bằng dao
Ngày làm được ba cắc hai
Ăn hết ba cắc xài ngoài hai xu
Trốn đi thì sợ ở tù
Liều thân ở lại làm bù ba năm.
Trong chế độ thực dân, một số địa chủ ở các địa phương
nổi lên, chiếm lấy nhiều ruộng đất. Người dân mất đất do
chủ đồn điền chiếm lấy, bị địa chủ ép mua rẻ, gán nợ. Đất
1  BCH Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.27.
57

6.8 Page 58

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đai trước đây người dân khai mở dần mất và cuộc sống rơi
vào túng quẫn, khó khăn, phải bán sức lao động, làm thuê
cho địa chủ, hương hào và nộp tô thuế. Từ đầu thế kỷ XX
trở đi, chính quyền thực hiện nhiều loại thuế đối với người
dân Việt Nam, trong đó mỗi nam giới thành niên (tuổi từ
18 trở lên) phải đóng thuế thân. Trong tình cảnh chung của
người dân bị lệ thuộc ngoại xâm, trai tráng Phú Hội:... hàng
năm thanh niên trai tráng ở Nhơn Trạch phải đóng thuế thân.
Mỗi người đàn ông gọi là tráng đinh (18 tuổi trở lên), theo
quy định mỗi năm phải đóng đến 4-5 đồng thuế thân. Đến
sau năm 1930, thuế thân tăng lên 6,3 đồng/năm. Ai không
có tiền đóng thì bị làng lính bắt trói, đóng trăn cả tuần lễ,
đánh đập cho tới chừng nào có đủ để nộp mới tha. Vì vậy,
tới “mùa” thu thuế thân ai cũng nơm nớp, cứ nghe chó sủa
rộ là đàn ông trai tráng ở Nhơn Trạch, những ai chưa đủ tiền
đóng thuế thân lại tìm cách chạy trốn, phần lớn là kéo nhau
chạy vô rừng, đến tối mới dám về nhà. Nhưng trốn cũng chỉ
là giải pháp tạm thời, muốn yên ổn làm ăn sau cùng cũng
phải chạy vạy, vay mượn, có khi là vay bạc nặng lãi để nộp
thuế, nợ chồng thêm nợ.
Năm 1929, chính quyền thực dân Pháp cho xây dựng
kho dự trữ vũ khí Thành Tuy Hạ trên đất Long Thành. Kho
tàng quân sự này xây trong 4 năm. Người dân ở các xã xung
quanh khu vực này bị tập trung làm phu không công ít nhất
15 ngày mỗi người trong một năm với công việc chặt cây,
phá bụi, san bằng các gò, nổng, đào ô đắp ụ để chứa bom,
58

6.9 Page 59

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
khiêng vác vật liệu xây dựng...1. Việc khai mở, thành lập
các đồn điền, sở cao su, các công trình phục vụ cho Pháp
buộc chính quyền chiếm lấy nguồn đất ở địa phương và đẩy
người dân lâm vào cảnh mất đất canh tác, gây thêm những
khó khăn trong đời sống.
Từ trong chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, hình
thành một giai tầng mới trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Những người nông dân không ruộng đất, bán sức lao động,
làm thuê cho giới chủ đồn điền, sở cao su. Họ trở thành lực
lượng mới trong xã hội, sống trong cảnh vừa bị bóc lột từ
chủ tư bản của chính quyền thực dân, của địa chủ, hương
hào trong bộ máy phong kiến đã ý thức được tình cảnh
và tinh thần phản kháng sự áp bức. Địa bàn Long Thành,
đặc biệt là vùng đồn điền cao su được truyền bá tư tưởng
cách mạng khá sớm, đặc biệt trong lực lượng công nhân.
Công nhân ở các sở cao su Ông Cố (Phú Hội), Tân Tường,
kho Thành Tuy Hạ “có dịp tiếp xúc với những người cách
mạng như ông Bảy Dài, được nghe dẫn giải về truyền thống
yêu nước, về giai cấp công nhân, về Đảng Cộng sản Đông
Dương... Nhiều người được tham gia mấy cuộc diễn thuyết
của cán bộ Đảng, mỗi cuộc đông hàng trăm người, có cuộc
bị cảnh sát đàn áp dã man. Từ diễn thuyết dẫn đến nhiều
cuộc đình công yêu sách đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ
làm. Cuộc đình công thu được một phần kết quả, chủ phải
1  Huỳnh Văn Tới chủ biên, nhiều tác giả (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.67 - 68.
59

6.10 Page 60

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
nhượng bộ. Qua phong trào tham gia diễn thuyết, đình công,
người Nhơn Trạch tiếp nhận được nhiều lý luận mới mẻ về
cách mạng, về Đảng. Cuốn Điều lệ Đảng Cộng sản Đông
Dương âm thầm phổ biến cho nhiều người, từ người biết
chữ lan truyền trong dân, từ người nhiều chữ đến người ít
chữ. Người dân hiểu ra bọn địa chủ, bộ máy hội tề, chính
quyền thực dân là nguồn gốc của áp bức bóc lột bạo tàn.
Muốn thoát khỏi cảnh ngựa trâu bóc lột đó, muốn người cày
có ruộng, thì nông dân phải kề vai sát cánh với công nhân
để lật đổ toàn bộ giai cấp thống trị cũ, dựng xây cuộc đời
mới”1. Vì vậy, khi có chủ trương, đường lối yêu nước của
cách mạng, người dân Phú Hội hưởng ứng và đồng hành
trong con đường đấu tranh.
Ở Nam Kỳ nói chung, từ năm 1928 đã thành lập những
tổ chức tuyên truyền về đường lối cách mạng vô sản (Công
hội đỏ, Hội Cách mạng thanh niên). Từ Sài Gòn, các tổ chức
cách mạng cử người đến Biên Hòa tuyên truyền, vận động,
xây dựng cơ sở trong nhân dân; đặc biệt là đội ngũ công
nhân các cơ sở đồn điền, cơ sở nông, lâm nghiệp. Những
cuộc đấu tranh từ ý thức dân sinh đã hình thành trong tầng
lớp công nhân đồn điền trên tỉnh Biên Hòa từ những năm
cuối thập niên 20 của thế kỷ XX đã tác động đến quần chúng
nhân dân vốn có truyền thống yêu nước. Hàng loạt các cuộc
đấu tranh của công nhân ở Biên Hòa: công nhân đồn điền
1  Huỳnh Văn Tới chủ biên, nhiều tác giả (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.74-75.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Cam Tiêm (tháng 9-1928, nay thuộc huyện Cẩm Mỹ), Phú
Riềng (tháng 2-1930, nay thuộc tỉnh Bình Phước), nhà máy
cưa BIF (nay thuộc Biên Hòa), Đề-pô Dĩ An (nay thuộc
Bình Dương)... và các cuộc lãn công ở đô thị Sài Gòn đã nổ
ra, tạo dư luận, gây nên tiếng vang đã cổ vũ cho tinh thần
chống áp bức đối với quần chúng nhân dân. Người dân Phú
Hội, những công nhân trong các cơ sở đồng cảm với thân
phận trong cảnh sống cơ hàn bởi chính quyền thực dân, giới
chủ đồn điền đã hưởng ứng các phong trào đấu tranh.
Ngày 3-2-1930 đánh dấu bước ngoặt trong đấu
tranh cách mạng của Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam
được thành lập. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với tư cách Đặc
phái viên của Quốc tế Cộng sản đã triệu tập hội nghị các tổ
chức cộng sản hoạt động ở Việt Nam. Tại Hồng Kông, đại
diện của tổ chức cộng sản trong nước đã đồng ý hợp nhất
(Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản liên đoàn) để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Các tổ chức cơ sở Đảng ở Nam Kỳ được hợp
nhất. Ban Chấp hành lâm thời của Đảng tại Nam Kỳ do
đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư. Các tổ chức Đảng được
thành lập cơ sở trên địa bàn tỉnh Biên Hòa đã vận động, tập
hợp quần chúng, công nhân tham gia đấu tranh khá sôi nổi
đưa ra các yêu sách chống bắt bớ, đàn áp, giảm sưu cao thuế
nặng, bắt xâu...
61

7.2 Page 62

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh1 nổ ra ở Bắc Trung Bộ có
tiếng vang mạnh mẽ, cổ vũ cho phong trào đấu tranh cách
mạng trong cả nước. Ở các đồn điền, nhà máy, xí nghiệp, cơ
sở công - nông - lâm nghiệp trên địa bàn Biên Hòa hưởng
ứng và tổ chức các cuộc đấu tranh tại chỗ. Thế nhưng, do
còn thiếu kinh nghiệm nên phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh
cũng như các nơi đã bị thực dân Pháp đàn áp, tổn thất nặng.
Các tổ chức cách mạng ở tỉnh Biên Hòa tan rã và những
người chủ chốt bị bắt, tù đày. Một số đảng viên, người yêu
nước phải rời khỏi Biên Hòa đi nơi khác tránh sự lùng bắt,
khủng bố của thực dân Pháp.
Từ năm 1933 trở đi, sau thời gian tạm lánh, các đảng
viên tìm cách đến Biên Hòa để gây dựng cơ sở, phong trào
cách mạng trong đó có các đồng chí Lưu Văn Viết (Tư Chà),
Hoàng Minh Châu (Vỹ). Tháng 2-1935, trên cơ sở những
đảng viên kết nạp, đồng chí Hoàng Minh Châu tiến hành
hội nghị thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Bình Phước - Tân
Triều. Bình Phước - Tân Triều là 2 khu vực thuộc quận Châu
Thành tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh
Cửu). Sự thành lập chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều
1  Từ tháng 2 đến tháng 9-1930, nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nông
dân, công nhân và các tầng lớp khác trên cả nước. Các cấp ủy Đảng ở xã,
thôn đã lãnh đạo quần chúng thực hiện chức năng quản lý của chính quyền
gọi là “Xô viết”. Thực dân Pháp đàn áp phong trào.
62

7.3 Page 63

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đánh dấu giai đoạn mới cho phong trào đấu tranh cách mạng
của tỉnh Biên Hòa sau thời kỳ dài bị chìm lắng1.
Tháng 6-1936, có những biến động trong chính thể
của nước Pháp khi Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm
quyền, thực thi một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa, trong
đó có Việt Nam. Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra
tình hình Việt Nam, cử Toàn quyền mới ở Đông Dương,
thực thi một số luật sửa đổi (luật bầu cử Viện Dân biểu,
ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí...). Đảng
Cộng sản Đông Dương tổ chức hội nghị tháng 7-1936, đề ra
đường lối và phương pháp đấu tranh ở Việt Nam trong tình
hình mới. Hội nghị tổ chức tại Thượng Hải (Trung Quốc),
do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì, xác định: Nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương
là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp,
trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân
chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp
các hình thức công khai và bí mật hợp pháp và bất hợp pháp.
Đồng thời, hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống
1  Chi bộ tổ chức hội nghị tại nhà của đồng chí Huỳnh Văn Ngọc (Năm
Ông), thuộc ấp Tân Triều, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu; gồm các đồng
chí: Hoàng Minh Châu (Bí thư), Huỳnh Văn Phan (Phó Bí thư), Lưu Văn
Viết, Lưu Văn Văn, Quánh Tỷ, Quách Sanh, Trần Minh Triết, Phạm Văn
Khoai. Địa điểm thành lập chi bộ Bình Phước - Tân Triều, sau này là Tỉnh
ủy Lâm thời Biên Hòa được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai xếp hạng di
tích theo quyết định số 224/QĐ.UBND ngày 23-1-2001.
63

7.4 Page 64

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng 3-1938 đổi
thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là
Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Đảng kêu gọi thành lập các
Ủy ban hành động để tập hợp quần chúng đấu tranh chuẩn
bị cho Đông Dương đại hội. Ở Nam Kỳ, ngày 13-8-1936,
Ủy ban lâm thời Đông Dương Đại hội được thành lập tại Sài
Gòn. Ở Biên Hòa thành lập Ủy ban hành động do đồng chí
Nguyễn Văn Nghĩa làm chủ tịch. Các đồng chí Dương Bạch
Mai, Nguyễn Văn Nghĩa được Ủy ban Đông Dương Đại hội
phân công phụ trách Biên Hòa. Ủy ban hành động tỉnh Biên
Hòa phân công các đảng viên về Long Thành, Nhơn Trạch
phổ biến tài liệu, tuyên truyền vận động, kêu gọi đấu tranh.
Phong trào đã tập hợp, thức tỉnh nhiều người trong các tầng
lớp xã hội hưởng ứng, tham gia. Tại các địa bàn cơ sở, nhà
máy, xí nghiệp, giới chức và người lao động thành lập các
ủy ban hoạt động sôi nổi. Hàng loạt các tổ chức hội đoàn ở
các địa phương từ vùng đô thị Biên Hòa đến các vùng nông
thôn như: hội Ái hữu các ngành nghề, hội Tương tế của
nhiều giới, hội Chùa, hội Miễu, hội Lân, hội Cày, hội Cấy...
thu hút nhiều người tham gia. Những vấn đề “dân nguyện”
như giảm sưu, giảm tô, bãi bỏ thuế... được gửi đến chính
quyền thực dân. Qua các hoạt động này, phong trào cách
mạng phục hồi, phát triển, có lực lượng bồi dưỡng, tạo nên
những cơ sở cốt cán, kết nạp vào hàng ngũ của Đảng.
Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí
Trương Văn Bang (Ba Bang, Ba Đen), nguyên Bí thư Xứ ủy
64

7.5 Page 65

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Nam Kỳ (1933-1934) đến Biên Hòa phát triển cơ sở đảng,
thành lập Tỉnh ủy. Trên cơ sở chi bộ Đảng Bình Phước - Tân
Triều và những đồng chí gắn bó với phong trào đấu tranh ở
Biên Hòa trước đây, Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được
thành lập đầu năm 1937 do đồng chí Trương Văn Bang làm
Bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy viên gồm: Trần Minh Triết,
Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Liễng, Nguyễn
Hồng Kỳ... Tỉnh ủy tiến hành công tác xây dựng Đảng ở
Biên Hòa với các bước phát triển mới, nhiều tổ chức quần
chúng được thành lập ở Long Thành như Công hội, các hội
đoàn, trong đó có sở Ông Cố (Phú Hội), sở Tân Tường (Phú
Thạnh). Sự thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã tác động
mạnh đến phong trào đấu tranh chung, có sự chỉ đạo từ trên
xuống cơ sở, các chi bộ đảng nhiều nơi thành lập. Từ năm
1937 đến 1939, đấu tranh cách mạng diễn ra rộng khắp cả
ở vùng đô thị, vùng đồn điền cao su và nông thôn, bằng cả
phương thức vừa bí mật và công khai. Một số đảng viên
của Xứ ủy Nam Kỳ được cử về Long Thành - Nhơn Trạch
hoạt động: Dương Bạch Mai (địa bàn Phước Lộc, Long An,
An Lợi, Phước Thiền); Nguyễn Văn Nghĩa (Nghĩa Xược),
Hồ Văn Đại (địa bàn đồn điền Siph, Bình Sơn, Ang Viễng);
Trương Văn Bang, Nguyễn Văn Lũy, Huỳnh Văn Ký (địa
bàn Tam An, Tam Phước, An Hòa); Hồ Văn Giàu (địa bàn
Phước An, Phước Thọ). Cùng với tình hình chung, phong
trào cách mạng ở Nhơn Trạch - Long Thành bắt đầu đi vào
chiều sâu. Những đồng chí đảng viên đã giúp quần chúng
65

7.6 Page 66

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
nhân dân nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết về chủ
nghĩa cộng sản và mục tiêu đấu tranh của cách mạng. Tinh
thần yêu nước và những hoạt động Đông Dương đại hội ở
Biên Hòa khá sôi nổi, tạo nên một khí thế đấu tranh bằng
nhiều hình thức khiến chính quyền thực dân Pháp lo ngại.
Tình hình thế giới năm 1939 chuyển biến phức tạp
đã tác động đến Việt Nam và chính quyền thực dân Pháp ở
Đông Dương. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Ở Đông
Dương, chính quyền thực dân thay đổi Toàn quyền, thực
hiện hàng loạt chính sách nhằm vơ vét sức người, sức của
cho chiến tranh. Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương
G. Catroroux tuyên bố tại Hội đồng Chính phủ Đông
Dương: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ
chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng
sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với
nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế
chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương
tiếc”1. Bộ máy chính quyền thực dân ở Đông Dương được
tăng cường, chúng ra những nghị định cấm tuyên truyền
cộng sản, lưu hành tài liệu cộng sản, giải tán các hội ái hữu,
nghiệp đoàn, tiến hành truy lùng bắt giam đảng viên cộng
sản, những người yêu nước. Những thành quả, quyền lợi của
nhân dân Việt Nam đấu tranh trong thời kỳ Đông Dương đại
hội thời kỳ Mặt trận dân chủ thực dân Pháp xóa bỏ, thủ tiêu.
1  Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2010), Đại cương
lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.802.
66

7.7 Page 67

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Khi Pháp đầu hàng phát xít Đức và phát xít Nhật đưa quân
vào Việt Nam vào tháng 9-1940. Phong trào đấu tranh cách
mạng Việt Nam tiếp tục bị đàn áp, đứng trước những khó
khăn trong tình cảnh “Một cổ hai tròng” từ sự cấu kết của
thực dân Pháp, phát xít Nhật. Ở Biên Hòa, cán bộ, đảng viên
thực hiện rút vào hoạt động bí mật. Đồng chí Nguyễn Văn
Nghĩa bị địch bắt, bị đày tại nhà tù Bà Rá (trước thuộc Biên
Hòa, nay thuộc huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước).
Tình hình cách mạng ở Việt Nam lâm vào khó khăn.
Ở Nam Bộ, ngày 6-11-1939, Trung ương Đảng tổ chức hội
nghị (lần VI), tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) do đồng
chí Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị nhấn mạnh việc
củng cố Đảng về mọi mặt, chuyển từ đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp, từ hoạt động hợp
pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp,
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương,
dự bị những điều kiện bước đến bạo động làm cách mạng
giải phóng dân tộc. Năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp bàn về
khởi nghĩa, dự định tiến hành vào đêm 22 rạng ngày 23-11-
1940. Xứ Ủy Nam Kỳ là tổ chức của Đảng thành lập năm
1930, đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư đầu tiên, lãnh đạo
phong trào đấu tranh cách mạng ở Nam Bộ. Xứ ủy nhiều lần
thay đổi do sự khủng bố, đàn áp của chính quyền thực dân
Pháp. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Xứ ủy Nam Kỳ mất
liên lạc với Trung ương Đảng. Từ năm 1943 - 1945, hình
67

7.8 Page 68

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thành 2 Xứ ủy với tên gọi: Tiền Phong, Giải Phóng. Ngày
15-10-1945, tại Cầu Vỹ (Mỹ Tho) diễn ra hội nghị thống
nhất Xứ ủy, bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư.
Khởi nghĩa Nam Kỳ có quyết định hoãn của Trung
ương Đảng nhưng ở các địa phương Nam Bộ không kịp
nhận thông tin. Tại Biên Hòa, khởi nghĩa đã nổ ra mạnh ở
Châu Thành, Tân Uyên (nay thuộc Bình Dương) sau thời
gian chuẩn bị, phát động. Thực dân Pháp tiến hành đàn áp.
Các cán bộ chủ chốt Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ bị bắt,
đày ra nhà tù Côn Đảo, đồng chí Huỳnh Liễng hy sinh, một
số đồng chí khác bị bắt giam tại nhà tù Tà Lài (nay thuộc
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai), Bà Rá. Lực lượng vũ trang
do đồng chí Nguyễn Văn Quỳ (Chín Quỳ) rút vào hoạt động
bí mật vùng rừng núi Tân Uyên.
Sau khi phát xít Nhật đưa quân vào Đông Dương, từng
bước lấn ép thực dân Pháp. Những hiệp ước, hiệp định giữa
Nhật và Pháp năm 1941 tạo cho Nhật Bản có nhiều ưu đãi
trên lãnh thổ Đông Dương: Hiệp định Tôkyô Pháp thừa
nhận địa vị đặc biệt của Nhật Bản về kinh tế (ngày 6-5),
Hiệp định “Phòng thủ chung Đông Dương” quân đội Nhật
Bản tự do đi lại và không hạn chế về số lượng (ngày 29-7),
Hiệp định quân sự việc Pháp phải đảm bảo những điều kiện
hậu cần cho quân đội Nhật Bản (ngày 8-12).
Nhật từng bước độc chiếm thị trường về kinh tế, quân
đội Nhật tự do đi lại và chính quyền thực dân Pháp cung cấp
68

7.9 Page 69

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
các phương tiện chiến tranh, thiết lập các cơ sở quân sự, đảm
bảo những điều kiện hậu phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận định:” Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn
thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật.
Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”1.
Tại Long Thành, quân đội Nhật chia nhau đóng ở sở
Bà Đầm, khu căn cứ Nước Trong, nhà máy điện, khu Thái
Thiện. Nhằm phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, hàng ngày,
quân Nhật lùng bắt từ 300 - 400 người người đi làm xâu xây
dựng sân bay, đường xá, đồn bót. Người dân Long Thành thì
trước cảnh Pháp bắt lính, Nhật bắt phu. Những tên lính Nhật
cũng ác độc tàn bạo như lính Pháp. Người dân bị bắt đi phu
làm việc cực nhọc trong quá trình Nhật dựng sân bay Nước
Trong (An Lợi) và Gò Dầu (Phước Thái), làm đường ở Bến
Gỗ, Hố Nai, Bà Rịa nhiều tháng trời. Nhiều người bị bắt lao
động hà khắc, phản kháng thì bị đánh chết, bị bệnh không
được điều trị phải bỏ mạng khi bị trả về. Đời sống người dân
Nhơn Trạch thời điểm này vô cùng cơ cực. Hột lúa vùng đất
giồng làm ra vất vả, lính Nhật còn bắt dân đóng lúa hương
lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho than để chạy máy.
Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai lang, khoai
mì, ăn độn rau các loại, nạn thiếu đói xuất hiện ở Nhơn
Trạch. Trước đây, người dân trồng bông hoặc mua nguyên
1  Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí Minh toàn tập - tập 3, 1930 - 1945, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.556.
69

7.10 Page 70

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
liệu (bông, chỉ) dệt vải (vải ta) nên nhà nghèo thì vẫn sắm
đủ quần áo để mặc vì giá rẻ. Khi Nhật chiếm đóng, cấm
không cho người dân được dệt vải, vận chuyển, mua bán để
tiêu thụ hàng từ Nhật chuyển sang. Người dân Nhơn Trạch
không có tiền mua vì giá đắt nên phải sử dụng bao bố, bao
tải làm quần áo. Bên cạnh thiếu ăn, thiếu mặc, trong sinh
hoạt cũng không có dầu để sử dụng trong sinh hoạt. Người
dân lấy hột trái mù u, dừa ép làm dầu thắp. Đa số người dân
vùng nông thôn ở Long Thành, Nhơn Trạch sống trong cảnh
đói kém, thiếu thốn, cơ hàn1.
Để hướng dân chúng ủng hộ, Pháp và Nhật sử dụng
nhiều chiêu bài tuyên truyền lừa dối, mị dân. Thực dân
Pháp tuyên truyền về chủ thuyết “Pháp - Việt đề huề”,
tuyên truyền về “Cần lao, Gia đình, Tổ quốc” để cùng nhau
hợp tác, xây dựng phát triển, không nên chống đối, phản
kháng chính quyền. Phát xít Nhật chủ trương thành lập
khối “Đại Đông Á” kêu gọi người dân bởi “đồng văn đồng
chủng”, cùng “máu đỏ da vàng” nên ủng hộ Nhật chống
Pháp. Ở Long Thành, một số người như Trần Quang Vinh,
Nguyễn Văn Sót làm tay sai đắc lực cho Nhật. Hoạt động
cách mạng ở các địa phương của Biên Hòa trong giai đoạn
này lâm vào khó khăn, kéo dài cho đến năm 1943 khi chiến
tranh thế giới có những biến chuyển giữa các khối tham gia.
1  Huỳnh Văn Tới chủ biên, nhiều tác giả (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.81 - 82.
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Nhằm huy động, tập hợp sức mạnh của quần chúng
trong công cuộc giải phóng dân tộc, tháng 5-1941, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tổ chức hội nghị lần thứ VIII tại
Pắc Bó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc - thay mặt
Quốc tế Cộng sản chủ trì. Hội nghị nhận định tình hình và
xác định nhiệm vụ cách mạng là giải phóng dân tộc của từng
nước Đông Dương, chủ trương thành lập ở mỗi nước một
mặt trận. Việt Nam thành lập Việt Nam độc lập đồng minh
hội - gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Để tập hợp quần chúng,
Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng mặt trận dân tộc thống
nhất và các đoàn thể cứu quốc. Ngày 25-10-1941 Việt Minh
công bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: “Việt Nam Độc
lập đồng minh ra đời”. Bản Chương trình cứu nước của Việt
Minh gồm có 44 điều cụ thể để thực hiện hai điều cơ bản
mà toàn thể đồng bào mong ước là làm cho nước Việt Nam
được hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng tự
do. Chương trình Việt Minh vừa ích nước vừa lợi dân, nên
được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Cơ sở Việt Minh, hội
Cứu quốc và các đoàn thể lần lượt được xây dựng ở nhiều
địa phương.
Từ cuối năm 1942 trở đi, chiến tranh thế giới có những
chuyển biến có lợi cho khối Đồng Minh nhưng ở Đông
Dương, quân Nhật đẩy mạnh càng lấn áp Pháp để giành
quyền kiểm soát. Nắm bắt tình hình, từ ngày 25 đến ngày
28-2-1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng để bàn
việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến khởi
71

8.2 Page 72

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
nghĩa vũ trang1. Trong năm 1943, những tổ chức Đảng ở
Nam Kỳ được thành lập từ các cán bộ, đảng viên hoạt động
ở Nam Bộ trước đây, trốn thoát ra từ nhà tù thực dân cùng
với những phái viên của Trung ương Đảng cử vào gây dựng.
Ban Cán sự miền Đông thành lập vào tháng 10-1943. Tại
Mỹ Tho, Xứ ủy Nam Kỳ được tái lập từ chủ trương của các
đồng chí Dương Quang Đông, Trần Văn Giàu (gọi là Xứ ủy
Tiền phong). Xứ ủy cử nhiều cán bộ đi nhiều địa bàn để liên
lạc, móc nối, phục hồi các tổ chức đảng địa phương. Đến
tháng 3-1943, Ban Cán sự Cao su miền Đông được thành
lập đã có những tác động tích cực đến hoạt động cách mạng
trong công nhân vùng đồn điền cao su. Xứ ủy Nam Kỳ cử
đồng chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) đến hoạt động ở địa bàn
Biên Hòa. Liên Tỉnh ủy miền Đông phân công đồng chí
Trịnh Văn Dục móc nối liên lạc, xây dựng cơ sở trên địa bàn
Long Thành. Để qua mặt sự kiểm soát của chính quyền lúc
bấy giờ, đồng chí Trịnh Văn Dục cải trang hành nghề bán
thuốc lào, nuôi ngựa, đánh xe ngựa... đi khắp địa bàn Nhơn
Trạch - Long Thành nắm tình hình, tuyên truyền về cách
mạng, gây dựng cơ sở yêu nước, móc nối, xây dựng tổ chức
Đảng. Tháng 3-1944, các đồng chí Lê Minh Định, Vũ Hồng
(Phô), Lý Trần Hoan từ Ban Cán sự miền Đông gặp và trao
đổi với đồng chí Trịnh Văn Dục về tình hình chiến tranh thế
giới, chủ trương khởi nghĩa của Đảng và chuẩn bị cho việc
1  Hội nghị diễn ra tại Võng La thuộc Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay là
ngoại thành Hà Nội. Đồng chí Trường Chinh là Bí thư Đảng.
72

8.3 Page 73

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thành lập chi bộ Đảng tại chỗ theo chủ trương của Xứ ủy.
Đồng chí Lê Minh Định thay mặt Ban cán sự miền Đông
giao trách nhiệm đồng chí Trịnh Văn Dục làm bí thư và cử
Vũ Hồng Phô (Vũ Khánh, Sáu Khánh) và Lý Trần Hoan ở
lại hỗ trợ. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên thành lập trên đất
Long Thành. Sự thành lập chi bộ Đảng tại Long Thành là
bước chuẩn bị chu đáo có sự lãnh đạo của Đảng cho phong
trào đấu tranh trong tình hình mới, đặc biệt tạo gây dựng
phong trào mạnh mẽ ở các đồn điền cao su và lan tỏa trong
quần chúng nhân dân. Sau khi chi bộ được thành lập, các
đồng chí đảng viên đã tổ chức mở “Hội tiết kiệm” trong sở
cao su. Mỗi hội có từ 10 đến 15 người, mỗi tháng đóng một
đồng, không tính lãi. Số tiền góp được dồn cho một người
chủ quán, có nhiệm vụ tổ chức chi tiêu. Công nhân các sở
cao su Tân Tường, Ông Cố, Thành Tuy Hạ cũng thành lập
các hội tương trợ, hội tiết kiệm. Thông qua tổ chức hội tiết
kiệm nên hội viên tham gia bỏ những thói hư trong sinh hoạt
trước đây như đánh bài, rượu chè; đồng thời tiết kiệm được
tiền, từng bước giác ngộ tinh thần yêu nước. Chi bộ đảng
tại Long Thành kết nạp thêm những đảng viên: Mai Hiển
Thái, Ba Tiễu. Đồng chí Trương Văn Kỷ (Bảy Kỷ) là đảng
viên hoạt động ở Phước Thiền về sinh hoạt cùng chi bộ. Lực
lượng phát triển, chi bộ phân công từng đồng chí đảng viên
đi vào các sở cao su tuyên truyền và tổ chức được những
73

8.4 Page 74

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
người ưu tú làm nòng cốt1. Từ hoạt động của chi bộ Đảng,
những người yêu nước và cơ sở cách mạng được đến với các
địa bàn Phước An, Phước Thọ, Đại Phước, Phú Thạnh, Phú
Hữu, Phước Khánh ở Nhơn Trạch và các chi bộ đảng tiếp
tục được thành lập ở một số đồn điền cao su, nhà máy. Trong
thời gian này, Ban Cao su miền Đông cử đồng chí Lê Đình
Cự tổ chức Liên đoàn cao su tại Long Thành với mục đích
thống nhất chương trình hành động cách mạng. Liên đoàn
đã tổ chức “Nghiệp đoàn xe bò” gồm những phu chuyên chở
gỗ, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm cho các công trình
của quân Nhật. Đồng chí Trương Văn Kỷ phụ trách nghiệp
đoàn này, tuyên truyền anh em đấu tranh bằng hình thức lãn
công, bỏ trốn làm giảm nhân lực, chậm tiến độ xây dựng,
gây khó khăn cho địch. Cuối năm 1944, các đồng chí Trịnh
Văn Dục, Mai Hiển Tháo, Vũ Hồng Phô tổ chức được Quận
bộ Việt Minh ở Long Thành - tổ chức mặt trận cấp quận đầu
tiên ở tỉnh Biên Hòa, xây dựng thêm những cơ sở ở đồn điền
Bình Sơn, An Viễn, thị trấn Long Thành.
Sự mâu thuẫn thẳng giữa Pháp - Nhật ngày càng căng
thẳng như dự đoán của Đảng. Ngày 9-3-1945, Nhật thực hiện
đảo chính Pháp để thống trị Đông Dương. Một ngày sau,
chính quyền Pháp hoàn toàn đầu hàng Nhật ở Đông Dương
gây nên những xáo trộn từ bộ máy chính quyền, các chủ tư
bản, quân lính. Ở Biên Hòa, bộ máy chính quyền của tỉnh
1  BCH Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.36-37.
74

8.5 Page 75

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
và các quận của Pháp rơi vào tay Nhật và các tổ chức, đảng
phái thân Nhật đẩy mạnh các hoạt động. Trước tình hình
mới, ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu tập hội nghị tại làng Đình Bảng, Từ Sơn (Bắc Ninh),
ra chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Đảng nhận định việc Nhật đảo chính Pháp tạo ra cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng điều kiện khởi nghĩa
chưa chín muồi và xác định kẻ thù cần đánh đuổi lúc này là
phát xít Nhật, đưa ra khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách
mạng nhân dân Đông Dương”. Chỉ thị chủ trương phát động
một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ với các hình
thức tổ chức, phương pháp đấu tranh thích hợp và nhanh
chóng chuyển sang tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi
có điều kiện.
Các địa bàn Long Thành, Xuân Lộc, Châu Thành...
của tỉnh Biên Hòa các tổ chức đảng phục hồi và khôi phục
hoạt động khi nhiều đảng viên, cán bộ chủ chốt trở về móc
nối, liên lạc, phát triển mạng lưới. Trong lúc Pháp bị thất
thế trước quân Nhật, các tổ chức Đảng nhanh chóng đưa
người vào làm chủ tình hình, đặc biệt là bộ máy hội tề ở các
xã tan rã, các đồn điền cao su mà giới chủ bỏ trốn. Chính
quyền thân Nhật ở Biên Hòa, Long Thành được dựng lên
với sự thay đổi về nhân sự nhưng chỉ tồn tại trong một thời
gian ngắn khi chính phủ Trần Trọng Kim tan rã. Từ tháng
5-1945, các hoạt động cách mạng phát triển mạnh. Xứ ủy
Nam Kỳ (Tiền Phong) do đồng chí Trần Văn Giàu làm Bí
75

8.6 Page 76

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thư, thành lập lực lượng Thanh niên Tiền phong1, cử bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh. Lực lượng Thanh niên Tiền
phong thu hút hàng triệu người tham gia ở Sài Gòn và các
tỉnh, trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, mục đích
đánh đuổi phát xít và tay sai.
Tại Biên Hòa, lực lượng Thanh niên Tiền phong được
thành lập do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh. Ở Long Thành,
lực lượng Thanh niên Tiền phong được tổ chức do thầy giáo
Nguyễn Văn Chỏi làm thủ lĩnh. Chi bộ Long Thành phân
công đồng chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo
Chỏi để nắm lực lượng. Đoàn Thanh niên Tiền phong địa
bàn Nhơn Trạch có lẽ bắt nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú
Nhuận) gắn với hoạt động của đồng chí Trần Thị Ba - đảng
viên cộng sản được cấp trên phái về xứ Giồng Ông Đông
năm 1945. Đồng chí Trần Thị Ba vóc dáng thấp nhưng lanh
lợi, nói chuyện giàu sức thuyết phục nên tập hợp được nhiều
thanh niên vùng Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Đại
Phước tham gia vào lực lượng Thanh niên Tiền phong ở địa
phương2. Phong trào Thanh niên Tiền phong khu vực Nhơn
Trạch hoạt động sôi nổi, đều khắp. Tổ chức Thanh niên Tiền
phong được biên chế thành đội, mỗi đội vài mươi người
1  Lực lượng thanh niên Tiền phong thành lập ngày 1-7-1945, tại Sài Gòn.
Một thời gian ngắn phong trào thanh niên Tiền phong phát triển khá rầm
rộ ở Nam Kỳ, trong đó có tỉnh Biên Hòa.
2  Huỳnh Văn Tới chủ biên, nhiều tác giả (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.89 (ghi lại từ cụ Phạm Văn Đạm, cán bộ
Tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, xã Phú Thạnh, nay đã mất).
76

8.7 Page 77

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nòng cốt, trang bị thô sơ, chỉ vài khẩu súng lấy hoặc mua
được của lính Pháp, còn lại là tầm vông, dây thừng, giáo
mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội là tuần tra canh gác xóm
làng, chống trộm cắp, cướp phá; hăng hái luyện tập quân sự
sẵn sàng chiến đấu để giải phóng dân tộc. Không khí sinh
hoạt của Thanh niên Tiền phong gian khổ nhưng sôi động
bởi tập đội hình, tiếng hát thúc giục tinh thần hăng hái từ bài
hát Lên đàng1. Người dân địa phương tích cực chăm lo hậu
cần cho Thanh niên Tiền phong địa phương.
3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Vào tháng 5-1945, nhằm kịp thời lãnh đạo quần chúng
đấu tranh, khởi nghĩa, Liên Tỉnh ủy miền Đông tổ chức hội
nghị tại ấp Vĩnh Cửu, Tam Hiệp, Biên Hòa để phổ biến tình
hình và nhiệm vụ cách mạng cho các tỉnh Đông Nam Bộ.
Tháng 7-1945, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam
Kỳ tổ chức họp tại chùa Tân Mai (Biên Hòa) với các đồng
chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng,
Đặng Nguyên phổ biến chủ trương gấp rút xây dựng, phát
triển các tổ chức đoàn thể Việt Minh, nắm chắc lực lượng
Thanh niền Tiền phong, đoàn kết đảng viên trong các nhóm
khác nhau, phát triển lực lượng chính trị, vũ trang và thống
nhất hành động trước thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.
1  Bài hát lên đang của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, sáng tác năm 1944 với
những lời ca: “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng...”.
77

8.8 Page 78

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Tình hình thế giới có tác động đến cách mạng ở Việt
Nam khi chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc.
Nhật Bản có quân đội phát xít trên lãnh thổ Việt Nam, ủng
hộ chính phủ Đế quốc Việt Nam đứng trước tình thế nguy
cấp bởi quân Đồng Minh đang thắng thế trên nhiều mặt trận.
Ngày 8-5-1945, phát xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh
không điều kiện. Ở châu Á, quân phiệt Nhật hạ vũ khí đầu
hàng ngày 24-8-1945. Tình hình này làm quân Nhật ở Đông
Dương hoang mang, dao động. Chính phủ Trần Trọng Kim
với thực lực yếu, không có cơ sở đứng vững. Quân đội các
nước lấy danh nghĩa Đồng Minh tiến vào Việt Nam, Đông
Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ để cách mạng thực hiện
tổng khởi nghĩa xuất hiện nhưng phải chạy nước rút trong
tình thế này. Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng
bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Hội
nghị của Đảng tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết
định phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa và đưa ra
10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. Ngày 16-8-1945,
Tổng bộ Việt Minh tổ chức đại hội ủng hộ chủ trương khởi
nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt
Minh, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc do
Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Nhiều địa điểm nổ ra khởi nghĩa và giành thắng lợi, cổ
vũ mạnh mẽ cho cả nước đứng lên. Ngày 19-8-1945, khởi
nghĩa tại thủ đô Hà Nội thắng lợi. Ngày 20-8-1945, Xứ ủy
78

8.9 Page 79

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Nam Kỳ tổ chức hội nghị tại Chợ Đệm (Long An) phổ biến
kế hoạch khởi nghĩa toàn miền. Ngày 23-8-1945, đồng chí
Hoàng Minh Châu chủ trì họp cùng các đồng chí Huỳnh
Văn Hớn, Ngô Hà Thành, Hồ Văn giàu, Lê Nguyên Đạt,
Đặng Nguyên, Hồ Văn Đại... bàn khởi nghĩa giành chính
quyền tại tỉnh lỵ Biên Hòa1. Hội nghị đã quán triệt nội dung
chỉ đạo của Xứ ủy, bàn bạc thống nhất và quyết định một số
việc cấp bách:
- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh
lỵ, phân công một số đảng viên về các quận huy động lực
lượng quần chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền.
- Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn
Đại và một số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ
hộ... nộp súng cho cách mạng, tránh xung đột vũ trang.
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng
Minh Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban nhân
dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.
- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp
xúc với tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý vận động y bàn giao
chính quyền cho cách mạng.
- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và
Nguyễn Đình Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi
nghĩa ở Sài Gòn.
1  Cuộc họp diễn ra tại căn nhà số 2, dãy phố Sáu Sử trong nội ô Biên
Hòa.
79

8.10 Page 80

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân,
Thanh niên Tiền phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang
cờ, khẩu hiệu sẵn sàng nổi dậy biểu dương lực lượng cướp
chính quyền.
Trên địa bàn Long Thành, chi bộ Đảng đã họp bàn,
chỉ đạo các lực lượng tuyên truyền, vận động công nhân
lợi dụng lúc địch đang hoang mang dao động, tìm cách giữ
lấy súng, máy móc trong các đồn điền, sở cao su của chủ
Tây. Ủy ban khởi nghĩa huyện Long Thành do các đồng chí
Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ trì họp,
phân công kế hoạch, địa bàn phụ trách, huy động công nhân
đồn điền, nhân dân các xã kéo về quận lỵ tham gia giành
chính quyền. Lúc 4 giờ chiều ngày 23-8-1945, xảy ra sự cố
bất ngờ ngoài kế hoạch. Giáo phái Cao Đài tại huyện Long
Thành do đạo trưởng Chín Lợi cầm đầu kéo 200 người trang
bị vũ khí ập vào huyện lỵ với ý định gây sức ép buộc quận
trưởng Hội bàn giao chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa phân
tích tình hình, thông báo trong toàn lực lượng đấu tranh,
vạch mặt nhóm Chín Lợi, làm vô hiệu hóa âm mưu của
chúng. Kế hoạch vẫn được tiến hành theo dự kiến.
Vào lúc 6 giờ sáng ngày 24-8-1945, các đội xung
phong nòng cốt là Thanh niên Tiền phong của chi bộ Long
Thành, Bình Sơn đã có mặt làm nhiệm vụ, canh gác ở các
ngã đường trên quốc lộ 15, tỉnh lộ 17 và 19. Đặc biệt, xung
quanh khu quận lỵ ở thị trấn được bố trí rất nghiêm ngặt.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Vào lúc đó, gần một trung đội lính Nhật đóng ở sở Bà Đầm
vẫn án binh bất động. Đến 7 giờ 30 phút đồng bào từ các
xã như thác lũ kéo vào thị trấn Long Thành. Đến 9 giờ, thị
trấn Long Thành như sôi lên trong biển người, cờ đỏ sao
vàng, cờ vàng sao đỏ, tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu vang lên
dậy đất. Đúng 10 giờ gần 400 anh em trong lực lượng xung
phong có vũ khí chia làm hai cánh kéo vào dinh quận. Tiếp
đó Ban khởi nghĩa gồm 19 người do đồng chí Trịnh Văn
Dục dẫn đầu tiến vào văn phòng quận trưởng. Lực lượng
của địch lúc này chỉ còn 11 tên lính do đội Giám chỉ huy,
có vũ khí, nhưng không dám chống cự. Trong dinh quận,
Chín Lợi cùng quận trưởng Hội trong nỗi lo sợ, im lặng.
Đồng chí Trịnh Văn Dục nhân danh chính quyền cách mạng
tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ phải chấm
dứt hoạt động từ huyện đến xã. Chính quyền cách mạng
đại diện cho quyền lợi của nhân dân trong huyện bắt đầu
làm việc. Quận trưởng thay mặt chế độ cũ phải giao toàn
bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ khí, thả hết các phạm nhân.
Cách mạng là sự nghiệp của mọi người, sẵn sàng khoan
hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia chế độ cũ”1. Sau
lời tuyên bố của đồng chí Trịnh Văn Dục, hàng ngàn người
nhất loạt hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Chính
quyền cách mạng muôn năm”. Quận Hội từ chức và bàn
giao hết hồ sơ sổ sách, kho tàng, vũ khí. Trong lúc đó, Chín
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những
chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.42.
81

9.2 Page 82

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Lợi mặt như chàm đổ, hổ thẹn, ra hiệu cho tay chân lẻn ra
sau nhà rồi trốn mất. Sau khi giành được chính quyền, một
cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hơn 3.000 người tham
dự. Trong buổi mít tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục thay mặt
Ban khởi nghĩa tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền
cũ bị xóa bỏ. Chính quyền cách mạng huyện đại diện cho
giai cấp công nhân, nông dân trong huyện ra đời. Kể từ nay
nam nữ bình quyền, người dân sống bình đẳng, mọi người
sống hạnh phúc”. Ủy ban cách mạng lâm thời Long Thành
ra mắt đồng bào: Đồng chí Trịnh Văn Dục (Chủ tịch), ông
Võ Văn Truyện (Phó Chủ tịch). Những người tham dự vỗ
tay hưởng ứng, hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn
năm”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm”. Giữa lúc ấy, phái
đoàn cán bộ đại diện cho Xứ ủy, miền Đông là các đồng chí
Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp đến kịp dự lễ.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, một cuộc họp
đảng viên bầu Huyện ủy Long Thành bằng hình thức giơ
tay biểu quyết. Huyện ủy Long Thành được thành lập, gồm:
Đồng chí Trịnh Văn Dục: Bí thư, đồng chí Vũ Hồng Phô:
Phó Bí thư, đồng chí Trương Văn Kỷ: ủy viên Thường vụ,
ủy viên có 2 đồng chí: Nguyễn Văn Phú, Lê Thành Liêm.
Đến 17 giờ cuộc mít tinh kết thúc. Tiếng hát, tiếng trống
vang lên như không dứt của những người tham dự trong
không khí vui mừng náo nhiệt. Người dân Long Thành được
hồi sinh, trở thành người tự do trong một nước độc lập sau
hơn 80 năm trong chế độ thống trị của thực dân Pháp và
82

9.3 Page 83

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
bị phát xít Nhật bóc lột. Tin tức về “Việt Minh” giành lấy
chính quyền ở quận lỵ theo chân những đoàn biểu tình từ thị
trấn đến các xã, thôn như một luồng gió thổi rất nhanh đến
với mọi người. Mặc dù chưa thật hiểu nhiều về Việt Minh,
cách mạng nhưng những người dân lao động Long Thành
đều náo nức vui sướng tham gia vào sự kiện lịch sử ở địa
phương. Thanh niên Tiền phong mang cờ đỏ sao vàng, cờ
vàng sao đỏ kéo tới các nhà làng (nhà hội, nhà võ - nơi làm
việc của hội tề xã). Các tầng lớp nhân dân kéo đến nhà làng
hò reo, hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”
với niềm vui lớn trong ngày trọng đại của đất nước.
Ban hội tề các xã lặng lẽ tự giải tán. Ở một số xã, ban
hội tề còn tập trung, cử đại biểu đem hồ sơ sổ sách tới nhà
làng giao cho Thanh niên Tiền phong. Không một nơi nào
có sự phản ứng của chính quyền cũ. Cùng với quận lỵ, chính
quyền của toàn bộ 21 xã thuộc huyện Long Thành đã về tay
nhân dân. Mờ sáng ngày 25-8-1945, người dân diễu hành
với cờ, Thanh niên Tiền phong với gậy tầm vông khắp các
trục lộ 25, lộ 15, lộ 17 và lộ 19.
Thực hiện chủ trương của Ủy ban cách mạng lâm thời
huyện, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh và Thanh niên
Tiền phong, hàng ngàn công nhân Bình Sơn, Ang Viễng,
Shiph, nông dân Phước Lộc, Thanh Nguyên, An Lợi, Phước
Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phước An, hăng hái xung phong
lên Sài Gòn tham gia tuần hành, biểu dương sức mạnh. Khí
83

9.4 Page 84

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thế cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ của nhân dân làm cho số
địa chủ, tề xã hoảng sợ, tự nguyện liên lạc với chính quyền
cách mạng xin được lập công bằng cách đóng góp lương
thực, thực phẩm và tham gia tiếp tế cơm nước cho các đoàn
thể ở địa phương. Từ quận lỵ, các cán bộ huyện được phân
công đi xuống các xã với nhiệm vụ xây dựng chính quyền
cách mạng cơ sở, thu lại các ấn mộc của chính quyền cũ và
tổ chức bãi thị, phong tỏa kinh tế của quân Nhật còn lại.
Một khí thế hừng hực cách mạng, sôi động và hào
hứng bao trùm Long Thành trong những ngày đầu khởi
nghĩa, khuấy động tới tất cả những xóm ấp xa xôi, hẻo lánh,
vốn xưa nay vẫn quen sống trong không khí ảm đạm, yên
phận và nhẫn nhục. Ngày và đêm, nhiều người bỏ cả đi làm,
tập trung tới nhà làng, trụ sở xã, ấp bàn tán, nghe nói chuyện
về Việt Minh, sinh hoạt văn nghệ. Thanh niên các xã hăng
hái đều gia nhập đội Thanh niên Tiền phong. Tại Phú Hội,
Phước Khánh có những linh mục, chức sắc, giáo dân hưởng
ứng, tham gia tích cực các hoạt động của chính quyền cách
mạng. Để phát huy khí thế thắng lợi của cách mạng, Ủy
ban cách mạng lâm thời chỉ đạo tổ chức nhiều cuộc mít tinh
quần chúng trong các xã1.
1  Đảng bộ huyện Long Thành chỉ đạo, nhiều tác giả (2015), Lịch sử
Đảng bộ huyện Long Thành 1930 - 1945, NXB. Đồng Nai, tr. 67 - 71.
84

9.5 Page 85

▲back to top


Chương III
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
1. Hai năm đầu Cách mạng Tháng Tám (1945 - 1946)
Xã Phú Hội hiện nay trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp gồm xã Phú Mỹ và Mỹ Hội thuộc địa bàn Long Thành,
tỉnh Biên Hòa. Những ngày cuối tháng Tám năm 1945 diễn
ra trong một không khí sôi nổi. Chính quyền cách mạng
quận Long Thành tổ chức nhiều hoạt động thu hút đông
đảo quần chúng tham gia. Nhân dân Phú Mỹ, Mỹ Hội tham
gia vào nhiều công tác do chính quyền cách khởi xướng, tổ
chức mít tinh và cử đoàn đại biểu về tham dự mít tinh, diễu
hành tại huyện lỵ Long Thành trong niềm vui của người dân
thoát khỏi sự thống trị và áp bức chính quyền Pháp, chế độ
phong kiến trên quê hương. Những ngày Nam Bộ hưởng
độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp thực hiện xâm
lược Việt Nam lần thứ hai.
Được sự hỗ trợ của quân đội Anh với danh nghĩa Đồng
Minh, giải giáp quân Nhật ở Nam Bộ, ngày 23-9-1945, quân
Pháp tấn công vào chính quyền cách mạng lâm thời ở Sài
Gòn. Sài Gòn - Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống Pháp.
Tin tức Pháp đánh Sài Gòn lan truyền đến các vùng xung
85

9.6 Page 86

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
quanh và Biên Hòa. Người dân Phú Mỹ, Mỹ Hội của Long
Thành cùng toàn tỉnh Biên Hòa bắt đầu bước vào một cuộc
kháng chiến dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng
non trẻ.
Trước khi Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được thành lập,
Quận ủy Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo
của Xứ ủy Nam Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ
thống chính trị, củng cố chính quyền cách mạng. Được Xứ
ủy Nam Bộ nhất trí, đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô,
chỉ đạo việc vận động xây dựng các tổ chức chính trị và
đoàn thể từ huyện đến xã. Ngày 23-9-1945, chuẩn bị cho
kháng chiến chống Pháp, tại nhà hội Bình Trước (xã Bình
Trước, quận Châu Thành)1, hội nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa
được tổ chức dưới sự chủ trì của Hà Huy Giáp (đại diện Xứ
ủy Nam Kỳ). Hội nghị quyết định thành lập Tỉnh ủy Biên
Hòa do đồng chí Trần Công Khánh làm Bí thư và đề ra
nhiệm vụ trước mắt:
- Củng cố bộ máy hành chính tỉnh (do đồng chí Hoàng
Minh Châu làm chủ tịch, Đặng Nguyên và Huỳnh Văn Hớn
- Phó Chủ tịch, Phan Đình Công - phụ trách viên Quân sự,
Ngô Hà Thành - phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc, Nguyễn Văn
Tàng - thư ký)
1  Nhà hội Bình Trước nay thuộc đường 30 tháng Tư, phường Thanh Bình,
thành phố Biên Hòa, được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 2307/
QĐ của Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao ngày 30-12-1991.
86

9.7 Page 87

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Cử các đoàn cán bộ của tỉnh đến các địa bàn thành
lập quận ủy (các quận Châu Thành, Tân Uyên, Long Thành,
Xuân Lộc)
- Xây dựng Mặt trận Việt Minh tập hợp các tầng lớp
nhân dân, tạo sức mạnh đoàn kết, huy động sức người, sức
của cho kháng chiến chống Pháp. Mặt trận Việt Minh tỉnh
do đồng chí Hồ Hòa làm Chủ nhiệm, Huỳnh Văn Lũy - Phó
Chủ nhiệm.
- Tổ chức trường huấn luyện quân sự, xây dựng lực
lượng vũ trang chuẩn bị kháng chiến. Tổ chức Thanh niên
Tiền phong và Thanh niên Cứu quốc của tỉnh hợp nhất do
đồng chí Hoàng Bá Bích làm Đoàn trưởng.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Long Thành, đến
cuối tháng 9-1945, các xã của huyện Long Thành trong đó
có nhân dân vùng xã Long Tân thành lập các tổ chức đoàn
thể cứu quốc tham gia Mặt trận Việt Minh.
Cuối tháng 10-1945, được tăng thêm viện binh, quân
Pháp tấn công, phá vỡ vòng vây kháng chiến của chính
quyền cách mạng và bắt đầu tổ chức các cuộc tấn công vào
các tỉnh lân cận Sài Gòn. Khi mặt trận Sài Gòn bị vỡ trước
sức tấn công của quân Pháp, địa bàn Nhơn Trạch, Long
Thành được nhiều đơn vị vũ trang chống Pháp rút về đứng
chân. Người dân Phú Mỹ, Mỹ Hội tham gia tích cực trong
các hoạt động, đóng góp lương thực, thực phẩm phục vụ
cho phong trào nuôi quân. Những lực lượng vũ trang rút từ
87

9.8 Page 88

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
các nơi về đứng chân tại Nhơn Trạch - Long Thành từ nhiều
nguồn, thành phần đa dạng. Trong đó, đơn vị tự xưng “Đệ
nhị sư đoàn” có nhiều thành phần chưa giác ngộ cách mạng
hoàn toàn nên nảy sinh một số trường hợp gây nên dư luận
xấu trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến phong trào
cách mạng. Những người chỉ huy Nguyễn Văn Du, Trịnh
Công Tây, Nguyễn Văn Trực, Lê Văn Cảnh có hành vi sợ
giặc, xem thường cấp dưới, sách nhiễu người dân lại uy
hiếp chính quyền cách mạng địa phương, không tuân thủ
theo lãnh đạo của tổ chức Đảng và bộ máy hành chính cách
mạng, lại cấu kết với những thành phần chống đối hành xử
theo tính chất quân phiệt. Sau nhiều lần cảnh báo, chính
quyền cách mạng Long Thành đã xử lý và giải thể lực lượng
tự xưng “Đệ nhị sư đoàn”.
Chính quyền cách mạng Long Thành vừa củng cố bộ
máy tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các vấn đề liên
quan chính sách, ổn định đời sống nhân dân. Hưởng ứng
nhiệm vụ diệt “giặc dốt” của Chính phủ cách mạng, ở Nhơn
Trạch - Long Thành, tùy vào điều kiện riêng mà các xã tổ
chức cho người dân tham gia “bình dân học vụ” để biết đọc,
biết viết. Phong trào xóa mù chữ tạo nên sự phấn khởi của
người dân vốn “đầu tắt mặt tối” trong cảnh cơ hàn, lo đi
làm để có cái ăn, nhiều người rủ nhau đến các lớp học do
các thầy giáo địa phương, cán bộ, đảng viên đứng lớp. Sau
các buổi học, người dân được hội phụ nữ, thanh niên địa
phương tổ chức biểu diễn văn nghệ, được hòa trong không
88

9.9 Page 89

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
khí vui vẻ. Chính sách tạm cấp ruộng đất và xóa mù chữ của
chính quyền cách mạng đến đời sống của tầng lớp nông dân
diễn ra trong thời điểm còn nhiều khó khăn đã tạo nên niềm
tin, sự đồng tình ủng hộ và hưởng ứng các phong trào cách
mạng phát động1.
Từ Sài Gòn, quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và tiến
hành các hoạt động mở rộng vùng các địa bàn trên các trục
lộ quan trọng. Ở Long Thành, quân Nhật sau một thời gian
án binh bất động đã bung ra hoạt động, hỗ trợ quân Pháp.
Quân Anh, Ấn thỏa hiệp với Nhật, dọn đường cho Pháp tiến
đánh, mở rộng vùng chiếm đóng các khu vực lân cận Sài
Gòn ở miền Đông Nam Bộ. Trước sức tấn công của địch, cơ
quan cách mạng ở Long Thành chủ trương rút về khu vực xã
Phước Thiền, cơ quan hành chính cách mạng rút về trú đóng
chùa Nước Nhĩ ấp Bến Sắn, cùng các địa điểm khác để bảo
toàn lực lượng.
Trước tình hình Pháp đẩy mạnh đánh chiếm Nam Bộ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ
vào ngày 29-10-1945, khẳng định: “Từ Nam chí Bắc đồng
bào ta luôn luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết
tâm đánh tan quân cướp nước. Không quân đội nào, không
khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của
1  Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp
phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác định ngay
nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại
xâm.
89

9.10 Page 90

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
toàn thể một dân tộc... Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc
dân đã đoàn kết chặt chẽ thành một khối kiên cố, thành một
lực lượng thống nhất mà không một đội xâm lăng nào đánh
tan được”1.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, nhận định tình hình và
định hướng cách mạng Việt Nam. Chỉ thị phân tích sâu sắc
sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, nhất là
tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc
này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng”2; nêu rõ mục tiêu “dân tộc giải phóng”,
đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; mọi
hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt
“là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”3. Hưởng
ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Nhơn
Trạch, Long Thành đoàn kết, quyết tâm tin tưởng vào đường
lối kháng chiến của cách mạng ở địa phương.
Trước tình hình nhiều khó khăn đối với cách mạng
trong nước, để giảm thiểu những đối đầu trực diện của kẻ
địch, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán”
1  Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh toàn tập - tập 4 (1945-1946), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.89.
2  Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr. 26.
3  Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr. 26-27.
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
để rút vào hoạt động bí mật. Nhằm duy trì vai trò lãnh đạo
chính quyền cách mạng và nhân dân trong thời kỳ vừa bảo
vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, vừa kháng chiến kiến
quốc, Đảng để một bộ phận công khai dưới danh hiệu Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin ở Đông Dương, giữ phối
hợp giữa hoạt động bí mật và công khai. Trong tình hình
này, do nhận thức chưa đầy đủ, trên địa bàn Long Thành
không còn tổ chức đảng sinh hoạt và đây là khó khăn cho
phong trào đấu tranh. Tuy nhiên, các đảng viên, người yêu
nước vẫn tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh, đi
sâu vào cơ sở vận động quần chúng để tiếp tục đấu tranh.
Ở Đông Nam Bộ, Pháp đánh chiếm Biên Hòa và mở
rộng vùng chiếm đóng về hướng các trục lộ giao thông quan
trọng. Tại Long Thành, quân Nhật bung ra hoạt động dọc
các trục lộ và hỗ trợ quân Pháp. Đầu tháng 11-1945, quân
Nhật tổ chức bắt đồng chí Trịnh Văn Dục (Bí thư kiêm chủ
tịch Ủy ban), đồng chí Đỗ Hữu Phú (phụ trách Quốc gia tự
vệ cuộc) huyện Long Thành. Nhân dân xã Long Tân cùng
với các xã khác hưởng ứng kêu gọi của chính quyền cách
mạng huyện Long Thành tham gia mít tinh tuần hành phản
đối quân Nhật. Ngày 13-11-1945, khắp các ngả đường về thị
trấn Long Thành, quần chúng tham gia cuộc vận động của
Huyện ủy Long Thành. Hàng ngàn người dân xuống đường
kéo về thị trấn Long Thành. Cuộc biểu dương lực lượng của
quần chúng được tổ chức chặt chẽ, đầy đủ các tầng lớp nhân
dân: công nhân, nông dân, phụ nữ, tiểu thương, viên chức,
91

10.2 Page 92

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tín đồ của tôn giáo yêu nước tham gia... Nhiều khẩu hiệu
đả đảo lính Nhật, thực dân Pháp, đòi thả cán bộ cách mạng
được quần chúng giương cao trên đường tuần hành. Lính
Nhật bố trí tại thị trấn Long Thành, ngã đường vào Sở cao su
Siph - nơi giam giữ đồng chí Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú.
Đoàn biểu tình đến thị trấn, lính Nhật giương súng, tuốt lê
ngăn chặn. Hội Phụ nữ đi đầu hô vang khẩu hiệu, xông vào
đội hình lính Nhật, giằng súng và kêu gọi người dân tiến
lên. Trước khí thế sôi sục của nhân dân, lính Nhật phải giải
quyết ôn hòa.
Khi đoàn biểu tình đến văn phòng sở Siph, lính Nhật
rút vào bên trong cố thủ. Hoảng sợ trước khí thế của người
dân, quân Nhật cử người đàm phán. Huyện cử đồng chí Vũ
Hồng Phô dẫn đầu một phái đoàn vào làm việc. Lợi dụng
thời gian tạm nghỉ buổi trưa, tên đại tá chỉ huy căn cứ đã
tổ chức hai xe hộ tống bí mật đưa đồng chí Trịnh Văn Dục,
Đỗ Hữu Phú về Biên Hòa giao cho thực dân Pháp. Khi biết
tin hành động xảo trá của địch, những người tham gia biểu
tình tràn lên tấn công. Lực lượng vũ trang, thanh niên các xã
trong đoàn biểu tình với vũ khí thô sơ chuẩn bị cho cuộc tiến
công vào trụ sở địch. Lính Nhật được lệnh của chỉ huy đã nổ
súng uy hiếp tinh thần của đoàn biểu tình. Trước tình thế đó,
nhằm tránh đổ máu của quần chúng, bảo đảm lực lượng để
chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh tiếp, Ban chỉ huy cuộc biểu
tình phát lệnh rút quân. Các đoàn của các xã lần lượt trở về
địa phương. Tuy không đạt được mục đích đòi địch thả hai
92

10.3 Page 93

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
cán bộ cách mạng nhưng cuộc biểu dương sức mạnh với
trên 1.500 người ở Long Thành đã làm cho kẻ thù khiếp sợ;
quân Nhật những ngày sau đó án binh bất động, không dám
hung hăng lùng sục hành quân vào các làng xã như trước.
Đây là cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên sau Cách
mạng Tháng Tám, có sự tham gia của nhân dân xã Long Tân
với các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Long Thành. Cuộc
đấu tranh tập hợp đông đảo lực lượng các đoàn thể Phụ nữ,
Nông hội, Phụ lão, Thanh niên, Phật giáo cứu quốc trên địa
bàn, thể hiện sự đoàn kết trong bảo vệ thành quả cách mạng,
cổ vũ cho vùng Nhơn Trạch - Long Thành nói riêng và cả
tỉnh Biên Hòa. Đồng chí Bí thư Huyện ủy bị địch bắt là một
tổn thất lớn của cách mạng Long Thành.
Đến cuối năm 1945, chính quyền cách mạng Long
Thành từng bước được củng cố. Đoàn Thanh tra chính trị
miền Đông do đồng chí Dương Bạch Mai (trưởng đoàn) đến
Long Thành để kiểm tra tình hình kháng chiến ở địa phương.
Bộ máy lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của Long Thành
được kiện toàn, gồm: đồng chí Trịnh Văn Dục, Bí thư Huyện
ủy kiêm chức Chủ tịch huyện, Võ Văn Truyện (tức Hoàng
Việt Hà) giữ chức Phó Chủ tịch, đồng chí Trương Minh Kỷ,
Phó Chủ tịch kiêm ủy viên Tư pháp, đồng chí Trịnh Văn
Kính - ủy viên Chính trị, đồng chí Huỳnh Văn Đạo - ủy viên
Quân sự, đồng chí Lương Văn Nho - ủy viên Tài chánh,
Nguyễn Văn Hội - ủy viên Xã hội, Nguyễn Văn Thai - Thư
93

10.4 Page 94

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
ký. Huyện ủy Long Thành cử cán bộ đến một số địa bàn,
phối hợp với cán bộ, đảng viên tại chỗ gây dựng, chỉ đạo
phong trào đấu tranh.
Quân Pháp chiếm giữ khu vực Thành Tuy Hạ và tổ
chức các trận càn ra các khu vực xung quanh Long Tân, Tân
Tường, Phú Mỹ, Mỹ Hội, Phú Thạnh... để giữ thế an ninh.
Sau những tổn thất khi hành quân và nhằm trấn áp sự chống
đối của người dân, mỗi cuộc càn quét bố ráp, lính Pháp
thẳng tay bắn người, cướp của, đốt nhà và hãm hiếp phụ nữ
chúng bắt được. Tội ác của lính Pháp làm cho người dân vừa
lo lắng và căm tức, phẫn nộ1. Một số người dân các xã tránh
sự rùng bố của Pháp, bỏ ra vùng tự do Bình Qưới, Phước An
hình thành nên các xóm ấp Nhà Thờ, Cầu Sắt, Bàu lòng...
Tình hình dân chúng theo cách mạng kháng chiến ngày càng
đông nên huyện Long Thành thành lập xã Bình Thạnh2. Tại
Phú Hội, bà Đào Thị Phấn3 cùng với khoảng trăm hộ dân
được Ủy ban kháng chiến hành chính xã Phú Hội vận động
về khu Bàu Lòng, nằm trong khu lòng chảo Phước An sinh
sống, dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng.
1  Tội ác của lính Pháp được ghi nhận: Lính Pháp nghi ngờ người dân
theo Việt Minh, bắt đánh, giết dân khi họ đi làm như ông Mười Ngãi (ấp
Bến Cộ), ông Đỏ (ấp Ông Mai), Chị Nguyễn Thị Ngọc T. bị bắt, hiếp và
sát hại dã man.
2  Ủy ban nhân dân lâm thời xã Bàu Thạnh gồm: Đoàn Ngọc Minh (Chủ
tịch), Nguyễn Ký Kiệt (Phó Chủ tịch), Trần Ngọc Mai (Thư ký), các đoàn
thể cứu quốc được thành lập (theo Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ,
Nxb. Đồng Nai, tr.55).
3  Bà Đào Thị Phấn được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
năm 1994.
94

10.5 Page 95

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Trên bình diện quốc gia, Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa khẩn trương xây dựng, củng cố chính
quyền cách mạng để khẳng định địa vị pháp lý, chủ trương
sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ
thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ
chính thức. Mặc dù trong tình trạng quân Pháp tổ chức bình
định, càn quét, tỉnh Biên Hòa tuyên truyền đến người dân
tham gia bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vào ngày 6-1-1946. Nhân dân xã Phú Mỹ, Mỹ Hội tham
gia bầu cử trong niềm vui bởi đây là lần đầu họ cảm nhận
được địa vị công dân của một nước độc lập dù trên quê
hương còn giặc ngoại xâm. Để chuẩn bị cho bầu cử, tại các
làng xã, đội tự vệ đặt chốt canh gác ở các trục lộ để nắm tình
hình giặc càn, các đoàn thể tham gia tuyên truyền vận động.
Để ngăn cản quân Pháp hành quân, người dân tham gia phá
hoại cầu đường. Nhân dân hưởng ứng thể hiện tinh thần ủng
hộ cách mạng qua lá phiếu bầu của mình.
Không khí bầu cử lúc bấy giờ ở một số địa bàn Nhơn
Trạch, Long Thành khá sôi động. Chính quyền cách mạng
tổ chức chu đáo trong công tác chuẩn bị, tuyên truyền. Chủ
trương và các chính sách được giao cho các đội Thiếu niên,
Nhi đồng cứu quốc đi các địa bàn thông báo. “Nghe đây,
nghe đây... Ngày 2-9-1945, tại Thủ đô Hà Nội, Hồ Chủ tịch
thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nghe
đây, nghe đây...
95

10.6 Page 96

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Ngày 20-9-1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh tổ chức bầu
cử Quốc hội khóa I trong cả nước. Vậy yêu cầu đồng bào
trong xã từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử vào lúc 7 giờ sáng
ngày 6-1-1946 tại trụ sở Ủy ban Nhân dân lâm thời xã ở ấp
Nhà Thờ.
Nghe đây, nghe đây... Ngày 3-9-1945, Hội đồng Chính
phủ quyết định phát động trong toàn quốc chiến dịch tăng
gia sản xuất và cứu đói. Yêu cầu đồng bào trong ấp, xã tiếp
tục trồng thêm nhiều khoai, lúa, chăn nuôi thêm nhiều gia
súc, gia cầm...
Nghe đây, nghe đây... Ngày 25-11-1945, Trung ương
chỉ thị nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là củng cố chính
quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”1. Đợt bầu cử ở Nhơn
Trạch, Long Thành nhiều khó khăn, giặc Pháp ngăn chặn,
tấn công nhưng bằng nhiều cách, chính quyền các nơi đem
thùng phiếu đến nhà dân để phục vụ bầu cử. Kết quả bầu
cử, tỉnh Biên Hòa có 3 đại biểu trúng cử Quốc hội khóa I
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm: Hoàng Minh Châu,
Phạm Văn Búng, Điểu Xiển2.
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.56 - 58. (Lúc bấy
giờ ông Nguyễn Văn Thông có tên là Nguyễn Chiến Lũy, trong đội Thiếu
niên cứu quốc)
2  Tháng 1-1946, các đại biểu tỉnh Biên Hòa trúng cử Quốc hội khóa I
nước VNDCCH ra Bắc họp. Trên đường đi, đồng chí Điểu Xiển bị Pháp
phục kích, hy sinh.
96

10.7 Page 97

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Sau ngày bầu cử Quốc hội, thực hiện chỉ thị của trên,
các xã của huyện Long Thành bước vào đợt tiêu thổ kháng
chiến trước sức tấn công, bình định của quân Pháp trên địa
bàn toàn tỉnh Biên Hòa. Ngày 25-1-1946, quân Pháp với
những gọng kìm từ nhiều hướng tấn công Long Thành.
Hướng từ Biên Hòa, một tiểu đoàn lính Âu Phi có xe tăng
mở đường rầm rộ theo lộ 15 tiến xuống cùng với những
chiếc tàu theo sông Đồng Nai. Từ Sài Gòn, một tiểu đoàn
lính vượt bến Cát Lái hướng đến Long Thành. Giặc Pháp
tạo gọng kìm với ý định nhanh chóng thôn tính địa bàn
chiến lược này. Thực hiện chỉ thị của trên, cùng với quân
dân cách mạng Long Thành, xã Phú Mỹ, Mỹ Hội bước vào
cuộc chiến đấu. Từ Cát Lái, quân Pháp chia làm hai mũi tiến
đánh Long Thành. Mũi thứ nhất theo đường Phước Lý, phối
hợp với lực lượng ở Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân. Bộ
đội cùng dân quân Phú Hội, Mỹ Hội, Long Tân, Phú Thạnh
chặn đánh. Do đạn dược không còn nên bộ đội phải cắt rừng
về Phước An. Sáng hôm sau quân Pháp tiến tới Phú Hội
đóng quân. Mũi thứ hai theo lộ 19 tới Xoài Minh bị bộ đội
Bình Xuyên và bộ đội Long Thành chặn đánh. Với binh lực
hùng hậu, quân Pháp chiếm Long Thành và củng cố những
nơi đánh chiếm. Một số lực lượng vũ trang cách mạng rút
khỏi Long Thành theo lệnh Khu bộ khu 7 để bảo toàn lực
lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Từ tháng 2-1946, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc
hành quân mở rộng địa bàn truy lùng cán bộ Việt Minh, bắt
97

10.8 Page 98

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
lính và từng bước thành lập bộ máy xã tề. Liên lạc trong
hoạt động cách mạng giữa các địa bàn Nhơn Trạch - Long
Thành bị gián đoạn và sau đó bị cắt đứt hoàn toàn với tỉnh
Biên Hòa. Trước sức tấn công, chiếm đóng và kìm kẹp của
quân Pháp, một số cán bộ dao động, thối lui, bỏ chạy, tổ
chức đoàn thể, chính quyền các địa bàn của Nhơn Trạch -
Long Thành không còn hoạt động, phong trào cách mạng
dưới các xã lâm vào khó khăn. Nhằm củng cố hoạt động,
Huyện Long Thành chọn Phước An làm căn cứ đứng chân
hoạt động. Địa bàn toàn huyện tổ chức phân chia thành
những khu để củng cố, duy trì đấu tranh. Toàn huyện Long
Thành chia làm 4 khu:
- Khu I dọc trục lộ 17, gồm các xã từ Phước Thiền, Phú
Hội, Long Tân đến Phước Lý, do đồng chí Trương Minh Kỷ
phụ trách.
- Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển tới Phước
Thọ, do đồng Chí Huỳnh Văn Đạo và ông Võ Văn Truyện
phụ trách.
- Khu III gồm 4 xã thuộc Rừng Sác: Phước An, Phước
Khánh, Phước Thành, Phú Hữu và hai ấp Xoài Minh, Ông
Kèo (thuộc Phước Lý), do đồng chí Trịnh Minh Kính phụ
trách.
- Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 (từ Long
Thành đi Bà Rịa - Vũng Tàu) từ Thái Thiện tới Phước Tân,
kể cả các sở cao su; do đồng chí Lương Văn Nho phụ trách.
98

10.9 Page 99

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Cơ quan lãnh đạo từng khu được gọi là Khu ủy. Các
Khu ủy có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong
trào kháng chiến theo địa bàn được phân công. Phương thức
hoạt động của khu ủy được quy định là lưu động, bám địa
bàn, không cần trụ sở. Mỗi khu được có một phân đội vũ
trang từ lực lượng Giải phóng quân của huyện đưa về. Hàng
tháng, các Khu trưởng chỉ tập trung một lần ở Phước An để
báo cáo và trao đổi công tác. Việc thành lập các Khu ủy và
giao quyền lãnh đạo toàn diện cho khu ủy đã tạo nên một
bước chuyển quan trọng cho phong trào kháng chiến trong
toàn huyện. Không những các lực lượng phân tán hợp lý
tránh được tổn thất mà với phương thức hoạt động sáng tạo
thông qua các khu ủy, huyện đã luôn bám được xã, trực
tiếp lãnh đạo từng xã và chủ động phát huy được thế mạnh
từng vùng.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí
đóng quân và từng bước thành lập bộ máy xã tề nhằm ổn
định khu vực chiếm đóng. Địch đặt bót và điều quân trú
đóng ở khắp các xã, trong đó có Phú Mỹ, Mỹ Hội ở những
địa điểm được bảo vệ và bao quát tình hình địa phương. Mỗi
bót khoảng một trung đội Âu Phi do một thiếu úy hoặc một
trung úy Pháp chỉ huy. Tại Phú Hội, bót lính đóng gần nhà
thờ Mỹ Hội. Khi tiến hành lập bót ở đâu, địch dựng tề ngay
ở đó bằng cách sử dụng số hội tề cũ, số con cái phú nông,
địa chủ đồng thời tăng cường bắt lính, tổ chức các đơn vị
thân binh. Lính từ các bót liên tiếp mở các cuộc hành quân
99

10.10 Page 100

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
lùng sục ra các vùng xung quanh cướp phá đồ đạc của dân,
bắt lính, ngăn chặn cán bộ cách mạng bám dân hoạt động.
Trước tình hình khó khăn, huyện Long Thành vẫn cố
gắng duy trì các hoạt động trong vùng tự do. Đặc biệt, từ căn
cứ ở Phước An, huyện Long Thành tổ chức các lớp đào tạo
cán bộ mặt trận cho cán bộ ở các xã. Mặt khác, huyện chủ
trương chia nhỏ một số xã lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc liên lạc và lãnh đạo phong trào cơ sở. Xã Phú Mỹ, Mỹ
Hội tập hợp được tự vệ chiến đấu.
Năm 1946, thực dân Pháp đưa quân từ Nam Bộ ra miền
miền Bắc nhằm thay quân đội của Tưởng Giới Thạch. Trước
tình thế nguy hiểm này, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa
chọn những bước đi thích hợp. Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
“Hòa để tiến”, nêu rõ ý nghĩa của việc ký hiệp định, đồng
thời nhấn mạnh việc cảnh giác đề phòng, chuẩn bị sẵn sàng
chiến đấu nếu Pháp bội ước. Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Tạm ước với Chính phủ Pháp, thỏa thuận một
số điều khoản trong quan hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nước
và đặc biệt là đình chỉ xung đột ở miền Nam để tiếp tục đàm
phán. Thế nhưng, Pháp đã bội ước và vi phạm những thỏa
thuận đã ký kết. Pháp dựng lên chính phủ bù nhìn ở Nam
Bộ, đẩy mạnh càn quét, khủng bố, tấn công vào lực lượng
cách mạng.
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Tại Nhơn Trạch - Long Thành, Pháp tổ chức mở rộng
địa bàn chiếm đóng. Trên các hướng giao thông, quân Pháp
dùng bộ binh càn quét và thiết lập các đồn bót. Vùng lực
lượng cách mạng trú đóng, Pháp dùng máy bay rải truyền
đơn, kêu gọi đầu hàng, giao nộp vũ khí. Lực lượng cách
mạng tổ chức đánh Pháp càn quét, gây cho chúng những tổn
thất nặng nề, trong đó tiêu biểu là trận Lò Rèn1. Quyết tâm
bình định, Pháp thực hiện chủ trương ba sạch: “đốt sạch,
phá sạch, giết sạch”. Quân Pháp và lính tay sai hành quân
đến đâu là đốt nhà, cướp bóc, bắn giết, một cách dã man.
Địa bàn chiếm đóng được mở rộng, hệ thống đồn bót dựng
lên nhiều nhưng quân Pháp không khống chế được quần
chúng. Thực hiện chủ trương “bất hợp tác với kẻ thù”, nhằm
làm cho địch mất chỗ dựa và tránh tổn thất cho đồng bào,
các Khu ủy vận động nhân dân dời sâu vào vùng tự do xây
dựng xã, ấp chiến đấu. Ở xã Phú Hội, mẹ Lý Thị Lan có căn
nhà lớn, đồng ý để cách mạng đốt, không cho quân Pháp sử
dụng; đồng thời động viên mọi người cùng lên rừng Giồng
sinh sống.
Huyện ủy Long Thành chỉ đạo các Khu ủy, lực lượng
vũ trang thực hiện chủ trương tổng diệt tề và đẩy mạnh công
tác vũ trang tuyên truyền. Lực lượng bộ đội, tự vệ cuộc, tự
1  Trận Lò Rèn (xã Long Thọ ngày nay) xảy ra vào tháng 3-1946, tự vệ xã
được sự hỗ trợ của người dân địa phương, phối hợp với Chi độ 3,4 của lực
lượng Bình Xuyên và bộ đội Mai Văn Vĩnh phục kích tấn công quân Pháp,
tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi thu toàn bộ vũ khí.
101

11.2 Page 102

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
vệ chiến đấu tùy theo tình hình tại chỗ, điều nghiên, đột
nhập giải tán các ban hội tề xã, ấp. Vùng Phú Hội, Long
Tân giáp nhau có phong trào diệt ác, phá tề phát triển mạnh
với những thành viên du kích trẻ tuổi, gan dạ. Đặc biệt,
đồng chí Nguyễn Kim Quy1 ở xã Long Tân tổ chức những
trận đánh địch làm cho chúng khiếp sợ. Bằng sự gan dạ và
táo bạo, những trận đánh với sự đột nhập cá nhân, đồng chí
Nguyễn Kim Quy làm rã các hội tề, khiến chúng không dám
lộng hành ở Long Tân, Phú Mỹ, Mỹ Hội. Trên địa bàn Long
Thành, Nhơn Trạch, các đội du kích đã tấn công 28 ban hội
tề. 11 tên tay sai đắc lực cho giặc Pháp bị cách mạng xét xử
và trừng trị, những người còn lại được giáo dục rồi thả về2.
Phong trào cách mạng trong toàn huyện chuyển mình đi lên.
Phụ nữ xã Phú Hội có nhiều thành viên tham gia vào tổ chức
Hội mẹ chiến sĩ chăm lo, giúp đỡ cho bộ đội đóng quân trên
địa bàn. Đến cuối năm 1946, “Hội Mẹ chiến sĩ” Long Thành
đã có hàng ngàn hội viên, góp phần tạo nên sự gắn bó mật
thiết giữa nhân dân trong huyện và các lực lượng vũ trang.
Sau 10 tháng mất liên lạc, giữa tháng 11-1946, Tỉnh
ủy Biên Hòa cử đồng chí Phạm Văn Khoai đến Long Thành
1  Một số tài liệu cho ghi là Nguyễn Kim (Kiêm) Huy. Một số nhân chứng
tại địa phương cho biết tên là Quy, nhưng do cách phát âm, nhiều người
ghi lại là Huy. Nhà nghèo, anh làm nhiều việc, trở thành một thanh niên
hảo hán, chỉ đánh bọn nhà giàu ỷ thói ức hiếp dân lành, được người dân
quý mến, giác ngộ, tham gia cách mạng trước Cách mạng Tháng Tám.
2  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành -
những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.90-91.
102

11.3 Page 103

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
củng cố chỉ đạo Mặt trận Việt Minh. Tuyến liên lạc của
Long Thành với Biên Hòa đã được nối lại. Ủy ban nhân dân
quận đổi thành Ủy ban hành chính kháng chiến huyện. Tự
vệ chiến đấu quân đổi thành du kích xã.
2. Cùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện
chống Pháp (1946 - 1951)
Ngày 19-12-1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ
và nhân dân Việt Nam bị thực dân Pháp thẳng thừng cự
tuyệt, đưa quân tấn công Hà Nội. Để bảo vệ nền độc lập
và chính quyền cách mạng, với tinh thần “thà hy sinh tất
cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng
chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do: “Chúng ta
muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng
ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng quyết
tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng
lên!...”1. Tháng 6-1946, Bộ Chi huy Khu 7 tổ chức hội nghị
bàn về thống nhất chỉ huy, tổ chức các lực lượng vũ trang,
hình thành các chi đội ở các tỉnh. Thực hiện chủ trương này,
Vệ quốc đoàn quận Long Thành và Vệ quốc đoàn Biên Hòa
1  Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh toàn tập - tập 4 (1945 - 1946), NNB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 534.
103

11.4 Page 104

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thống nhất thành Chi đội 10 Biên Hòa. Vệ quốc đoàn quận
Long Thành trở thành Đại đội C của Chi đội 10 Biên Hòa.
Lực lượng chi đội 10 gồm: Đại đội A (các trung đội 1,2,3);
Đại đội B (trung đội 4,5,6), Đại đội C (trung đội 7,8). Ban
Chỉ huy Chi đội 10: Huỳnh Văn Nghệ (Chi đội trưởng),
Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung, Cao Minh Căng (Chi
đội phó), Phan Đình Công (Chính trị viên). Đại đội C gồm
3 trung đội 6, 7, 8 do đồng chí Lương Văn Nho làm đại
đội trưởng, Nguyễn Văn Toàn làm Đại đội phó, Lưu Văn
Phảng làm Chính trị viên. Tháng 12-1946, theo chỉ đạo của
tỉnh, các “Khu ủy” ở Nhơn Trạch - Long Thành giải thể,
củng cố lực lượng vũ trang. Các Ban công tác liên thôn ở
Long Thành được thành lập. Các Ban công tác Liên thôn:
1,2,3 thuộc địa bàn quận Tân Uyên; 4,5,6 thuộc quận Châu
Thành; 7 trước thuộc Tân Uyên, sau thuộc quận Sông Bé;
8 thuộc 1 phần quận Châu Thành và 1 phần Long Thành;
9 và 10 thuộc quận Xuân Lộc. Trong hệ thống liên thôn
của tỉnh, Long Thành chia làm 4 Ban liên thôn: 11, 12, 13,
14. Xã Phú Mỹ, Mỹ Hội thuộc Liên thôn 12 gồm các xã
Long Điền1, Phước Thiền, Long Tân do đồng chí Phạm Tự
Do phụ trách. Các Liên thôn khác gồm: Liên thôn 11 gồm
1  Do có sự khó khăn trong chỉ đạo phong trào, chính quyền cách mạng
Long Thành chia các xã với quy mô nhỏ hơn, gồm: Phước Hiệp chia thành
2 xã Phước Long, Phước Thọ; Phước Kiển thành 2 xã Phước Kiển, Phước
Mỹ; Phú Hữu thành 2 xã Phú Hữu, Phước Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú
Mỹ, Mỹ Hội; Long Phước thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước; xã Phước
Thiền tách thành lập thêm xã Long Điền; xã An Hòa chuyển giao về quận
Châu Thành (Biên Hòa ngày nay).
104

11.5 Page 105

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
các xã dọc hai bên lộ 15 từ Thái Thiện tới Phước Tân do
đồng chí Nguyễn Văn Xuất (Nguyễn Văn Học) phụ trách;
Liên thôn 13 gồm các xã Bình Thạnh, Phước Lý, Phú Hữu,
Phước Thành, Phước Khánh do đồng chí Liên phụ trách.
Ông Lê Xuân Lịch chỉ huy đội du kích liên thôn, ông Châu
Thành Phát là chỉ huy phó. Liên thôn 14 gồm các xã Phước
Kiển, Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An do
Nguyễn Trọng Trưởng phụ trách.
Mỗi Ban công tác liên thôn có một trung đội du kích
tập trung, với nhiệm vụ vừa vận động nhân dân đóng góp
ủng hộ kháng chiến, vừa trừ gian diệt tề, đánh địch, đồng
thời phối hợp với các đơn vị bộ đội của trên về tác chiến
ở địa phương. Ở các xã, Ban công tác được thành lập, trực
tiếp chỉ huy các đội du kích xã ấp. Đây là hệ thống quân sự
mới trên địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành, tham gia tích
cực diệt tề, trừ gian, phá hoại giao thông và kinh tế địch. Xã
Phú Mỹ, Mỹ Hội hình thành các lõm căn cứ du kích. Ban
công tác Liên thôn 12 tổ chức những trận đánh địch giành
thắng lợi, cổ vũ cho phong trào chung của huyện. Trận đánh
bót Mỹ Hội của du kích Phú Hội và Liên thôn 12, kết hợp
vũ trang và binh vận gây tiếng vang lớn, làm thối động lính
địch đóng dọc lộ 17.
Bót Mỹ Hội đóng ở điểm cao, gần nhà thờ Mỹ Hội nên
thường gọi là “bót nhà thờ”. Từ điểm cao này, lính Pháp bao
quát các địa điểm chung quanh. Bót có 1 trung đội gồm 200
105

11.6 Page 106

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
lính. Sau thời gian điều nghiên, nắm tình hình binh lính, Ban
công tác liên thôn 12 đã phối hợp với xã tổ chức vận động
tuyên truyền gia đình binh sĩ và linh mục chánh xứ tại địa
phương. Tín hữu và linh mục nhà thờ Mỹ Hội ủng hộ, cách
mạng gây dựng được hai cơ sở nội tuyến. Đồng chí Cương -
Ủy viên Ban liên thôn 12, đã viết thư tuyên truyền, kêu gọi
Sáu Bộ - chỉ huy lính tại bót. Khi gia đình binh lính gặp khó
khăn, Ban liên thôn 12 tổ chức giúp đỡ nên tạo được thiện
cảm, đã tác động đến người thân đi lính tại bót giác ngộ, ủng
hộ cách mạng.
Đầu năm 1947, các cơ quan của huyện Long Thành:
Ủy ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các
đoàn thể dần ổn định nơi làm việc trong địa bàn xã Phước
An. Chiến khu Phước An, căn cứ du kích một số xã được
thành lập. Chiến khu Phước An được thành lập, đóng vai
trò quan trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng của
Nhơn Trạch - Long Thành, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh
các xã rất lớn. Phước An là vùng đất ở phía Nam của huyện
Nhơn Trạch, chiều dài 13km, diện tích tự nhiên 10.997ha,
nằm dọc theo tỉnh lộ 19. Phía Bắc là vùng rừng Giồng nhiều
cây cối rậm rạp, nối liền với dải rừng Lòng Chảo rộng lớn.
Phía Nam là rừng Sác có diện tích rộng với rừng ngập mặn,
nhiều rạch, tắc chằng chịt gắn với đường thủy qua các khu
vực Nhà Bè, Sài Gòn, về hướng Gò Công, Tiền Giang, Bến
Tre hoặc Vũng Tàu. Với địa hình phức tạp và một số giao
thông thủy thuận lợi cũng như các trục giao thông đường
106

11.7 Page 107

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
bộ chia cắt bên trong để liên lạc với các địa bàn khác trong
và ngoài Long Thành, Phước An là địa bàn thuận lợi để làm
căn cứ kháng chiến.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây
dựng căn cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh,
tháng 1-1947, Ủy ban Hành chính kháng chiến, Mặt trận
Việt Minh và các đoàn thể quận Long Thành xây dựng căn
cứ ở Phước An. Trụ sở của các cơ quan là những căn nhà
lá dừa nước đặt ở những địa điểm thuận lợi cho việc đi lại,
liên lạc và tránh sự càn quét của địch. Ủy ban kháng chiến
huyện Long Thành đóng ở rừng Giồng, ấp Bà Trường, xã
Phước An. Chủ tịch là đồng chí Trần Bình Khê, Phó Chủ
tịch là đồng chí Trần Khánh Dư, Chánh văn phòng đồng chí
Phạm Đình Dũng, nhân viên đánh máy là đồng chí Nguyễn
Thị Tuyết. Trong khu vực căn cứ, một số lực lượng vũ trang
cũng trú đóng: đơn vị cơ động của tỉnh, của khu như Liên
quân Hoàng Thọ (chi đội 7, chi đội 6), bộ đội Sài Gòn - Chợ
Lớn... Các cơ quan chỉ huy và các đơn vị của Liên chi Bình
Xuyên, quân y viện và công binh xưởng ở phía Nam lộ 19.
Sau này có bộ phận Quân giới Nam Bộ từ miền Tây đến lập
các phân xưởng sản xuất vũ khí ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ
của các đơn vị đều được xây dựng qui mô, có bến ghe, vọng
gác, phòng tuyến chống địch, bãi tập để huấn luyện quân sự.
Chiến khu Phước An được xem là vùng tự do, độc lập của
cách mạng khi các khu vực đô thị lớn ở Sài Gòn - Gia Định,
107

11.8 Page 108

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Biên Hòa và thị tứ Long Thành bị địch bình định, thiết lập bộ
máy quản lý. Xây dựng khu căn cứ này có sự đóng góp quan
trọng của nhân dân ở Nhơn Trạch - Long Thành, từ các hoạt
động giao liên, tiếp tế, vận chuyển hàng hóa, lương thực.
Từ các đầu mối các cơ sở cách mạng ở các xã chung quanh
Phước An, các nguồn lương thực, thuốc men, dụng cụ y tế,
vũ khí... được tổ chức cung cấp cho căn cứ. Các chiến sĩ tự
vệ các xã được rút về tăng cường cho lực lượng vũ trang
cách mạng của huyện. Trong căn cứ Phước An, những cơ
quan được bố trí trận địa, giao thông hào, tổ chức canh gác
cẩn mật để bảo vệ, chống địch càn quét. Những khu vực bao
quanh căn cứ như đồng Lớn, xóm Ngọn, đồng Gò Cát và
những khúc sông... được nhân dân đóng cọc, làm rào ngăn
chặn tàu địch, lính nhảy dù đột nhập. Phong trào bảo vệ căn
cứ cách mạng ở Phước An được quần chúng tham gia tích
cực. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là những người gắn bó
với chiến khu Phước An đã sáng tác: “... Hàng trăm chiến
sĩ đồng bào, Thi đua cắm cọc ngăn tàu trên sông. Rừng cây
vót nhọn thành chông, Lính chông Đồng Lớn đứng trông
quân thù. Một hôm giặc Pháp nhảy dù, Chông cùng du kích
diệt thù trăm tên...1.
Quân Pháp tìm mọi cách để bao vây chiến khu Phước
An của Việt Minh. Dân ở các xã ở Nhơn Trạch bị địch càn,
ép vào các khu tập trung quanh đồn bót để dễ bề kiểm soát.
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.72-73.
108

11.9 Page 109

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Ở Phú Hội, những người nào bám trụ ở Xóm Hố thì vô cùng
khổ sở, khốn đốn với giặc Pháp. Địch sục vào nhà dân kiểm
soát gắt gao, không cho bà con trữ gạo, ăn tới đâu thì mang
lúa chà tới đó. Những đồ dùng như vải, muối, thuốc tây, dầu
đèn... tất cả mọi thứ chỉ được phép mua đủ dùng. Địch tổ
chức nhiều cuộc càn chủ yếu truy lùng cán bộ Việt Minh.
Trong các cuộc càn, quân Pháp thực hiện nhiều cuộc bắn
giết vô cớ với dân lành nếu ai trái ý hoặc bị chúng nghi ngờ
có liên hệ với Việt Minh. Gặp thanh niên thì lính Pháp bắt
đánh, gặp phụ nữ thì giở trò đồi bại. Sau những cuộc càn,
lùng, chúng cho pháo bắn vào cày xới nhiều đợt để người
dân không trụ lại, phải bỏ đi nơi khác hoặc vào những khu
dồn dân. Quân Pháp biết những người dân Xóm Hố là một
trong những nguồn tiếp tế chủ lực cho vùng kháng chiến
Phước An. Nhiều cơ sở cách mạng vẫn bằng nhiều cách để
có hàng hóa chuyển vào khu. Bà Trần Thị Sắc1 đi mua bán
nhiều nơi, gom hàng hóa, thực phẩm rồi tìm cách qua các
chốt kiểm soát của địch chuyển đến khu Nước Trong (nay
thuộc huyện Long Thành) để từ đây, chuyển đến chiến khu
Phước An bằng xe bò.
Cuối tháng 6-1947, sau khi thông tin kế hoạch cho cơ
sở nội tuyến nắm, du kích Liên thôn 12 cùng du kích Mỹ
Hội bao vây bót nhà thờ. Một du kích trà trộn trong số người
1  Là cơ sở cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến, có 4 người con là liệt
sĩ, được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994.
109

11.10 Page 110

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
dân đi lễ sáng sớm khống chế hai người gác cửa. Từ ám hiệu
của nội tuyến, du kích gỡ kẽm gai xông vào đồn. Binh lính
trong đồn được vận động từ trước, giao nộp vũ khí cho du
kích. Trận đột kích bứt đồn diễn ra rất nhanh, gọn và im lặng
trong khi nhà thờ vẫn còn đang làm lễ buổi sớm. Du kích rút
về căn cứ an toàn mang theo 18 súng, hàng nghìn đạn và gần
100 lựu đạn. Hơn 10 lính trong bót rời bỏ sắc lính, được du
kích về chiến khu Phước An. Đây là trận vũ trang kết hợp
địch vận bứt đồn tiêu biểu của Ban Liên thôn 12 trong cuộc
kháng chiến chống Pháp ở Long Thành. Sau trận đánh, quân
Pháp đưa quân xuống bắt những lính còn lại tại bót Mỹ Hội,
tra tấn dã man1, gây hoang mang lớn trong hàng ngũ binh
lính, nhiều thành viên các ban tề xã, ấp ở địa phương bất
mãn, rời ngũ, bỏ việc.
Nhằm tăng cường lãnh đạo phong trào nhân dân kháng
chiến tại Long Thành, tại chiến khu Phước An, Huyện ủy
Long Thành thành lập. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Vũ
Hồng Phô. Tháng 9-1947, chính quyền huyện Long Thành
được cải tổ do yêu cầu và nhiệm vụ mới. Ủy ban hành chính
kháng chiến đổi tên thành Ủy ban kháng chiến hành chính.
Đồng chí Lương Văn Nho được chỉ định kiêm chức Chủ tịch
1  Số lính của bót còn lại và chỉ huy Sáu Bộ bị bắt giam, tra tấn tại chi khu
Long Thành. Riêng Sáu Bộ bị đưa lên sở Siph, rồi dùng cách cho trèo lên
cây, buộc tự cầm dao chặt cành phía dưới, để rơi xuống chết trong đau đớn
(nguồn: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành
những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.107).
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
huyện. Cuối năm 1947, theo chỉ thị của trên, hệ thống quân
sự Liên thôn giải thể. Quận đội bộ dân quân được thành lập
trên cơ sở hợp nhất bốn ban công tác liên thôn do đồng chí
Phạm Tự Do làm Quận đội trưởng, đồng chí Hoàng Viễn
Tri làm Chính trị viên. Các đội du kích Liên thôn tập hợp
thành hai trung đội, quân số hơn 100 vũ khí thuộc lực lượng
vũ trang của huyện. Các Ban công tác xã thay bằng Ban Chỉ
huy xã đội, lực lượng du kích được củng cố.
Từ năm 1948, phong trào du kích chiến tranh của Nhơn
Trạch - Long Thành phát triển mạnh. Tháng 1-1948, đại
hội Đảng bộ huyện lần đầu tiên được tổ chức tại chiến khu
Phước An. Huyện ủy do bầu cử dân chủ chính thức thành
lập. Đồng chí Vũ Hồng Phô được bầu làm Bí thư Huyện ủy.
Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân của địch, huyện Long
Thành phát động phong trào “phá đường” được nhân dân
các xã ven lộ hưởng ứng rất sôi nổi. Nhân dân Phú Mỹ, Mỹ
Hội tham gia tích cực, vào mỗi tối, nắm tình hình của địch,
người dân không phân biệt tuổi tác, từ người già đến phụ nữ,
thanh niên mang cuốc, xẻng ra các trục lộ 17 “đào ngang xẻ
dọc”, làm cho mặt đường thành hố, hào. Các cầu cống trong
các xã dọc lộ 17 bị phá sập. Đoạn đường của lộ 17 qua các
xã Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân bị đào phá nhiều. Cầu
sắt dài 10m gần chùa Phước Thiền bị người dân Bến Cam,
Bến Sắn bóc lên rồi khiêng cách gần 1 cây số, quẳng xuống
sông. Cầu sắt lớn trên đường Mỹ Hội sang Long Tân bị dân
111

12.2 Page 112

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
dùng đục chặt đứt. Hai tuyến lộ 17, 19 trên địa bàn huyện,
địch chỉ có thể hành quân bộ hoặc chuyên chở bằng xe ngựa.
Sáng sớm ngày 12-1-1948, từ hướng Mỹ Hội, Phước
Thiền, Tam An, địch tổ chức ba mũi càn vào Long Điền.
Lực lượng vũ trang huyện gồm trung đội 2 du kích tập trung
huyện, du kích Long Điền, trung đội 8 đại đội C do đồng
chí Đạm chỉ huy, tổ chức chặn đánh. Trận đánh này làm cho
địch bị tổn thất nặng nề với 18 ghe bị đánh đắm, hơn 50 tên
bị tiêu diệt. Dọc theo lộ 17, mặc dù giặc Pháp đóng hai bót ở
Phước Thiền, hai bót ở Mỹ Hội, nhưng Bến Cam, Bến Sắn,
Phú Mỹ, Xóm Hố vẫn được coi là vùng tự do. Bộ đội, công
an xung phong qua lại đóng quân thường xuyên. Các Ban
tề ở Mỹ Hội bị thay đổi nhiều lần do bị quân cách mạng tấn
công, trừng trị.
Phong trào tiết kiệm gạo mỗi khi nấu ăn như “Hũ gạo
nuôi quân”, “Hũ gạo kháng chiến” được nhiều hộ gia đình
ở Phú Mỹ, Mỹ Hội tham gia, góp một lượng lương thực lớn
cho cách mạng, góp phần chung trong hoạt động của huyện.
Xã Phú Mỹ, Mỹ Hội là địa bàn địch đóng bót kiểm soát
gắt gao nhưng có tới 300 gia đình có “hũ gạo nuôi quân”
trong phong trào chung của huyện: 100% hộ gia đình trong
chiến khu Phước An, 250 hộ vùng tự do Tam Phước, 150
hộ Tam An, 148 hộ Phước Khánh, 146 hộ Long Nguyên,
250 gia đình ở Thái Thiện, 256 gia đình ở Phú Hữu, 197 gia
đình ở Phước Thành, 70% số gia đình ở Phước Thiền... Đặc
112

12.3 Page 113

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
biệt, gần 200 hộ ở làng kháng chiến Long An1. Hành động
tiết kiệm gạo mỗi khi nấu cơm của phụ nữ Nhơn Trạch,
Long Thành, đặc biệt ở Phú Mỹ, Mỹ Hội lưu truyền bài thơ
kêu gọi của người dân, thể hiện tình yêu thương đối với lực
lượng vũ trang cách mạng, lan tỏa nhiều địa phương:
Mỗi lần xúc gạo ra vo,
Nhớ con tiền tuyến hốt cho nắm đầy.
Mong ngày đánh thắng giặc Tây,
Nam Bắc sum vầy, con mẹ gặp nhau2.
Khí thế kháng chiến sôi nổi đã tác động sâu sắc tới tất
cả mọi tầng lớp nhân dân. Đồng bào Thiên Chúa giáo nhiều
nơi trong huyện, nêu cao tinh thần “kính Chúa yêu nước”
cũng hăng hái tham gia mọi hoạt động kháng chiến. Linh
mục nhà thờ Mỹ Hội, cung cấp tình hình địch, mua thuốc
ủng hộ cách mạng, giúp những nhà dân bị địch càn phá.
Cùng với phong trào quần chúng, lực lượng vũ trang
và dân quân du kích, tuy mới được củng cố lại, đã tổ chức
được nhiều trận đánh với nhiều hình thức đánh giặc phong
phú. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp thực hiện bình định, tấn
công đầu não chỉ huy kháng chiến, bao vây khu căn cứ và
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành -
những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.123.
2  Còn có những câu thơ về phong trào Hũ gạo nuôi quân ở Biên Hòa
như: Sớm mai hốt gạo ra vo, Nhớ Đoàn vệ quốc hốt cho nắm đầy. Một
tháng là ba mươi ngày. Mỗi ngày một nắm, nhớ rày Vệ quốc quân. Vệ
quốc quân là cách gọi những chiến sĩ chống Pháp thời kỳ đầu sau Cách
mạng Tháng Tám.
113

12.4 Page 114

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tăng cường xây dựng đồn bót, tháp canh cùng các chiêu bài
tâm lý chiến, tình báo, gián điệp chia rẽ người dân với cách
mạng. Để bảo vệ căn cứ, nhân dân đốn cây, chặt gỗ làm cọc,
tạo thành vành đai hàng mấy cây số từ ở Phú Mỹ, Mỹ Hội,
Long Tân, Phú Thạnh. Nhân dân Phú Mỹ, Mỹ Hội liên tục
đắp mô, đào ụ, đặt hố chông, đào hầm lớn chống chiến xa,
ngăn sức tấn công, càn quét của quân Pháp.
Ở Mỹ Hội, để chống càn đường thủy, xã vận động
đồng bào chở rơm, chở lá dừa nước kết thành bè chất dài
ven sông. Mỗi lần có tin tàu lên, du kích thả bè xuống sông
rồi đốt làm lửa cháy rực trên mặt nước. Những trận hỏa
công như thế này khiến địch thường phải quay tàu, bỏ càn.
Trong phong trào đóng góp nguyên vật liệu cho Binh công
xưởng sản xuất vũ khí, phụ nữ xã Phú Hội đã chuyển 15 tấn
đồng; trong đó bà Lê Thị Gấm đóng góp năm bộ lư đồng,
hai mâm đồng, tổng cộng 150 kg1. Vì sự nghiệp cách mạng,
các mẹ, các chị ở Phú Hội đã không tiếc những đồ quý hiếm
của gia đình, góp công của vận chuyển, bằng sự mưu trí để
qua chốt địch kiểm soát, vận chuyển cho căn cứ. Trong giai
đoạn này, lực lượng cách mạng của xã Phú Hội có những
tổn thất trong đấu tranh với địch, đồng chí Lý Văn Bảy2
hy sinh.
1  Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Đồng Nai (2005), Lịch sử
phong trào Phụ nữ tỉnh Đồng Nai 1930 - 2005, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai,
tr.82-83.
2  Đồng chí Lý Văn Bảy sinh năm 1917, chồng của mẹ Việt Nam anh hùng
Lâm Thị Bửu (1919 - 2009).
114

12.5 Page 115

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Từ tháng 9 đến tháng 12-1948, lực lượng vũ trang của
huyện cùng du kích xã Mỹ Hội, Long Tân,... liên tiếp đánh
3 trận chống càn lớn diệt gần 150 tên lính, thu hơn 60 súng
các loại, đập tan âm mưu phá hoại mùa màng, cơ sở cách
mạng của địch. Sự phát triển toàn diện của phong trào kháng
chiến Long Thành trong năm 1948 đã xác lập thế liên hoàn,
vững chắc giữa các vùng tự do mà trung tâm là chiến khu
Phước An.
Năm 1949, phong trào cách mạng Long Thành đứng
trước những tổn thất lớn do mạng lưới gián điệp địch cài
từ trước trong hàng ngũ cán bộ huyện và tổ chức đoàn thể.
Tên Nguyễn Quang Minh “chui sâu, leo cao” tới chức Phó
Bí thư Huyện ủy, tên Lại Văn Sang nắm giữ chức Trưởng
Công an huyện và một hệ thống chân rết ở trong chiến khu
Phước An1. Từ những vị trí chủ chốt, chúng nắm giữ và đưa
tin tức ra ngoài để địch bắt cơ sở cách mạng, cán bộ, đảng
viên, gây chia rẽ nội bộ. Hoạt động của bọn phản động đã
không thoát khỏi sự cảnh giác của nhân dân, cán bộ, đảng
viên Long Thành. Tỉnh ủy Biên Hòa đã chỉ đạo kịp thời
trong việc xử lý bọn gián điệp này và cơ sở của chúng, đập
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những
chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.134 - 138, cho thấy mạng lưới
gián điệp này nhiều chân rết: Nguyễn Thọ Phước trưởng Công an huyện,
Đặng Văn Quang (Quang Trắng) phụ trách Thanh niên huyện, Nguyễn
Văn Quang, thư ký Công đoàn huyện và Thứ giữ chức thư ký Nông hội,
Lộc, Yểm ở hội Nông dân, Quốc, Sơn ở Huyện đội, Xá ở bộ phận Thông tin,
Võ Văn Truyện (tức Hoàng Việt Hà) (nguyên Chủ tịch huyện)...
115

12.6 Page 116

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tan âm mưu đánh phá cách mạng. Ở Mỹ Hội, đồng chí Thiểu
(Xã đội trưởng), đồng chí Sặt (Chính trị viên xã đội) bị bọn
gián điệp địch cài vào tổ chức tìm cách vu khống rồi giao
cho đồng bọn sát hại. Nhưng những hoạt động của bọn phản
động đã không thoát khỏi sự cảnh giác của nhân dân, cán
bộ, đảng viên Long Thành. Tổ chức nội gián, phản động này
bị huyện Long Thành bắt gọn, phá tan, giao về tỉnh xử lý.
Sau tổn thất trên do gián điệp của địch, tổ chức cách mạng ở
các xã được thanh lọc để loại ra những tên phản động được
cài cắm trước đây, gây dựng và củng cố. Xã Phú Mỹ, Mỹ
Hội phát triển được nhiều đảng viên.
Đầu năm 1949, Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ huyện
Long Thành tổ chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng
chí Phạm Hùng (Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ). Ban
Chấp hành được bầu gồm các đồng chí: Võ Hồng Phô (Bí
thư), Trần Bình Khê, Trương Minh Kỷ, Nguyễn Sanh Thành
và Lê Hữu Tài (Lê Hữu Thướu)...1 Các cơ quan, đoàn thể
xã, huyện nhanh chóng ổn định. Tháng 7-1949, tại chiến
khu Phước An, huyện Long Thành tổ chức đại hội “Luyện
quân tập công” trong một tuần lễ. Hàng trăm thanh niên
của huyện đăng ký tòng quân, nhập ngũ. Hội Nông dân,
Phụ nữ các xã vận động quần chúng đóng góp hơn 3.000
1  Cuối năm 1949, đồng chí Vũ Hồng Phô chuyển lên Tỉnh ủy Biên Hòa,
đồng chí Năm Trị (Năm Hà) được phân công làm Bí thư. Đến giữa năm
1950, đồng chí Ngô Tiến làm Bí thư.
116

12.7 Page 117

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
giạ lúa phục vụ bộ đội, du kích. Xã Phú Hội có các anh
Nguyễn Thanh Phong (Hai Phong) tham gia cơ quan dân
chính huyện, Nguyễn Quang Đường (Ba Đường) gia nhập
bộ đội địa phương, Nguyễn Hữu Dũng (Tư Phiên) làm cán
bộ quân đều tham gia du kích, lực lượng vũ trang, quân y
phục vụ trên các chiến trường Nhơn Trạch, Bà Rịa1.
Mặc dù bị địch tấn công đánh phá nhưng lực lượng
cách mạng của Nhơn Trạch, Long Thành liên tiếp tổ chức
đánh địch để hỗ trợ cho phong trào bám trụ ở các xã. Du
kích xã Phú Mỹ, Phước Thiền phối hợp với bộ đội Trung
đoàn 309 phục kích trên lộ 17 diệt 15 tên thu nhiều lương
thực của địch. Nhằm động viên tinh thần kháng chiến và kêu
gọi tòng quân, tháng 7-1949, huyện Long Thành tổ chức đại
hội “Luyện quân tập công” tại chiến khu Phước An. Đại hội
kết thúc bằng một cuộc lễ đăng ký tòng quân tổ chức với
khí thế cánh mạng dâng cao cho 400 thanh niên đăng ký lên
đường nhập ngũ. Đặc biệt, xã Mỹ Hội có gia đình chị Sáu
Đen đăng ký tòng quân cả nhà gồm hai vợ chồng và 1 con
trai. Xã Phú Hội có 2 du kích bị Pháp càn bắt (anh Hai, con
của ông Huỳnh Đắc Thắng), anh Hai (con ông Tám Lẫm,
xóm Vườn) đưa về thị trấn Long Thành, bắt giam và phục
vụ trong đồn lính. Hai du kích nhân cơ hội sự lơ là của lính
canh khi gánh nước, lấy súng và trốn thoát, vượt qua Lộc
An, sau đó trở về Phú Hội tiếp tục tham gia chiến đấu.
1  Ba anh em là con của mẹ Việt Nam anh hùng Đặng Thị Tứ (1903-1987).
117

12.8 Page 118

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Tháng 10-1949, do yêu cầu chiến trường, Trung đoàn
309 (địa bàn Long Thành) và Trung đoàn 307 (địa bàn Bà
Rịa) sáp nhập thành Trung đoàn 397. Trung đoàn 309 ở
Long Thành phần lớn rút về Bà Rịa, chỉ để lại một bộ phận
gồm gần 300 cán bộ, chiến sĩ gọi là “Ban Đại diện trung
đoàn 397” do đồng chí Đặng Quang Long, đồng chí Lê Phải
chỉ huy.
Trong tình hình chung của cả nước trong chống Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Tổng động viên nhân
vật lực” với khẩu hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến để chiến thắng
giặc Pháp xâm lược và Mỹ can thiệp” vào ngày 12-2-1950.
Trung ương Đảng ra Nghị quyết về đẩy mạnh công tác
Thanh vận phát triển mặt trận Thanh niên rộng rãi để một
mặt huy động, tập hợp và tổ chức tất cả lực lượng thanh niên
yêu nước tham gia đấu tranh chống giặc. Trên tinh thần đó,
Tỉnh ủy Biên Hòa động viên lực lượng thanh niên trẻ trong
các cơ quan, ban ngành tham gia bộ đội, mặt khác đưa lực
lượng nòng cốt của các đơn vị bộ đội tỉnh về khu để thành
lập chủ lực tập trung, rút du kích xã lên xây dựng bộ đội,
đưa dân quân tự vệ lên làm du kích. Hệ thống Huyện đội
bộ dân quân giải thể và thành lập Huyện đội Long Thành
do đồng chí Nguyễn Văn Toàn làm Huyện đội trưởng, đồng
chí Nguyễn Văn Xuất làm Huyện đội phó. Hai trung đội du
kích tập trung hợp nhất thành lập bộ đội địa phương lấy tên
118

12.9 Page 119

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
là trung đội Trần Phú1. Bộ đội Trần Phú của Long Thành
được điều lên lực lượng chủ lực tỉnh nên huyện rút du kích
xã lên thành lập lại lực lượng địa phương lấy tên là đại đội
Hồ Văn Long với quân số 140 chiến sĩ2. Lúc này, Ban Đại
diện trung đoàn 397 chuyển về trung đoàn ở Bà Rịa, không
hoạt động ở Long Thành.
Quân Pháp và chính quyền tay sai tăng cường tuần tra,
đánh phá để chia cắt, bao vây khu căn cứ Phước An với rừng
Sác, vùng lân cận và nguồn tiếp tế. Lực lượng Bình Xuyên
do Lê Văn Viễn chỉ huy đầu hàng thực dân Pháp, quay lại
đánh phá cách mạng vùng Nhơn Trạch - Rừng Sác. Thực
dân Pháp đưa sĩ quan Jolet Suacot - Đại đội trưởng Đại đội
4 trung đoàn 22 (Regiment Injanteric Coloniale)3 đến Long
Thành kiêm Chỉ huy trưởng chi khu Long Thành. Quân địch
sử dụng lực lượng biệt kích đột kích, bố ráp, đánh phá, bắt
giết người tàn bạo nhằm trấn áp phong trào hoạt động cách
mạng. Mỗi cuộc càn, địch tuyên bố “Thấy Việt Minh chạy
vào nhà nào thì đốt nhà ấy, bắt tù tất cả nhà”. Để triệt phá
kinh tế kháng chiến, Suacot tổ chức nhiều cuộc hành quân
cấp đại đội, tiểu đoàn vào các vùng đồng ruộng phá lúa hoặc
1  Trần Phú (1904 - 1931), là Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông
Dương.
2  Ban chỉ huy đại đội gồm Nguyễn Văn Toàn (Đại đội trưởng), Lê Phái
(Chính trị viên).
3  Trung đoàn 22 RIC (Regiment-Ingianteric-Coloniale): Trung đoàn 22
lính thuộc địa. Suacot bắt tay ngay vào việc thực hiện ý đồ của cấp trên,
đầu tiên là xây dựng lực lượng biệt kích (Com-măng-đô), thực hiện giải
tỏa đường chiến lược 15.
119

12.10 Page 120

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
gặt lúa đem về đồn, đồng thời buộc dân gặt xong phải mang
hết về vùng chúng kiểm soát. Nhiều người dân vẫn bám trụ
hoạt động như gia đình bà Đặng Thị Quốc1 tiếp tế cho cán
bộ. Ông Huỳnh Văn Xa tham gia trực tiếp trong công tác
của xã Phú Hội. Một số cơ sở cách mạng tại Phú Hội bị giặc
Pháp phát hiện, giết hại. Gia đình bà Trần Thị Ba2 đều tham
gia cách mạng. Trong một chuyến giao liên từ Phú Hội đi
Bà Ký, bà bị quân Pháp giết hại khi đang mang thai người
con thứ hai.
Từ cuối năm 1950 đầu năm 1951, được sự tăng cường
viện trợ của đế quốc Mỹ, quân Pháp tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc bình định tăng cường độ chiến tranh đánh phá ác liệt
trên chiến trường Nam Bộ. Tình hình chiến trường Biên Hòa
bị chia cắt, ngày càng căng thẳng. Vùng căn cứ, lương thực,
thực phẩm, vũ khí... ở Nhơn Trạch - Long Thành phục vụ
cho kháng chiến thiếu hụt trầm trọng. Tương quan lực lượng
quân sự giữa cách mạng và địch trên địa bàn Nhơn Trạch,
Long Thành thay đổi. Lực lượng vũ trang trong huyện không
còn giữ được thế áp đảo, không có mặt ở mọi nơi, không
đánh địch chủ động và đều khắp như trước. Trong điều kiện
lực lượng vũ trang chủ lực Nhơn Trạch, Long Thành điều
chuyển, địch tăng cường đánh phá mạnh. Tổ chức Đảng cơ
sở các xã, vùng du kích bị xáo trộn.
1  Bà Đặng Thị Quốc được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014,
có hai người con là liệt sĩ trong kháng chiến chống Mỹ.
2  Bà Trần Thị Ba được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2000,
người con duy nhất hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Địa bàn xã Phú Mỹ, Mỹ Hội bị địch thường xuyên nã
pháo vào các vùng do cách mạng kiểm soát, tổ chức nhiều
cuộc càn quét, lùng sục, gây nhiều tổn thất cho lực lượng
cách mạng. Địch bắt được ông Nguyễn Văn Năng, Bí thư
chi bộ Phú Hội, đem chặt đầu bêu giữa chợ Phú Hội sáng
ngày 12-5-1950 hòng trấn áp tinh thần của người dân. Hai
chiến sĩ Lê Văn Bộ, Lê Văn Phép1 bị địch phục kích trên
đường công tác.
Tháng 4-1951, căn cứ Mỹ Hội bị đột kích, các đồng
chí Lư Văn Nên, Lê Văn Bộ, Lê Văn Pháp hy sinh... Ban
ngày, lính biệt kích hoạt động dài hơi hơn. Nếu không gặp
sự chống trả đáng kể của ta, chúng có thể lùng sục hàng buổi
bắn giết bất kể cán bộ, du kích hay người dân mà chúng tình
nghi là cơ sở, tiếp tế cho cách mạng. Sự đánh phá mạnh mẽ
của lực lượng biệt kích làm cho phong trào đấu tranh ở Long
Thành gặp nhiều khó khăn, vùng tự do bị thu hẹp.
3. Những năm cuối kháng chiến chống Pháp
(1951 -1954)
Đầu năm 1951, Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại
chiến trường. Toàn Nam bộ tổ chức hai phân liên khu miền
Đông và miền Tây. Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp
nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn thành
tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường gọi Bà Chợ). Xã Phú Mỹ,
1  Lê Văn Bộ sinh năm 1915, Lê Văn Phép sinh năm 1917, là anh em ruột,
con của mẹ Việt Nam anh hùng Võ Thị Mỳ (1890 - 1951).
121

13.2 Page 122

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Mỹ Hội thuộc huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Trước
những diễn biến gay go của phong trào kháng chiến Long
Thành, thường vụ Tỉnh ủy Bà Chợ chỉ đạo: Long Thành là
một địa bàn chiến lược, một vùng căn cứ, một chiến khu
quan trọng của vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong trào Long
Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng giá
nào cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành
để đảm bảo chỗ đứng của tỉnh Bà Chợ. Đầu tháng 7-1951,
Huyện ủy Long Thành được kiện toàn: đồng chí Nguyễn
Trọng Cát (Ba Đắc) làm Bí thư, đồng chí Trần Bình Khê giữ
chức Chủ tịch huyện, đồng chí Lê Phải làm Chính trị viên
huyện đội, đồng chí Nguyễn Tiến Lãng làm trưởng Công an
huyện, đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách Tuyên huấn và
đồng chí Nguyễn Sanh Thành chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Xã Phú Hội thành lập Mặt trận Liên Việt do ông Trần Văn
Côi1 - tham gia Cách mạng Tháng Tám ở địa phương, làm
chủ tịch. Sau này, ông Trần Văn Côi bị Pháp bắt giam, tra
tấn và hy sinh trong nhà thù thực dân. Bà Trần Thị Ba2 là cơ
sở cách mạng tại Phú Hội, trong nhiệm vụ giao liên bị Pháp
bắn chết tại cầu Bà Ký.
Nhơn Trạch, Long Thành bước vào giai đoạn kháng
chiến với nhiều cam go, khi vùng chiến khu Phước An bị
1  Ông tên Trần Văn Côi sinh năm 1896, là cha của mẹ Việt Nam anh hùng
Trần Thị Thiệt (1924-1965).
2  Bà Trần Thị Ba được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
năm 2000.
122

13.3 Page 123

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
giặc chiếm đóng. Ở các xã, do tình hình căng thẳng, một
số đông đảng viên rời địa bàn tạm lánh đến các vùng tạm
chiếm xa như Biên Hòa, Sài Gòn, chỉ còn một số ít trung
kiên bám trụ lại. Du kích nhiều xã không còn, trong đó có
Phú Mỹ. Ở một số nơi, cơ sở quần chúng bên trong hoang
mang, không dám tiếp xúc thường với cán bộ. Một số cán
bộ của huyện công tác về Phú Hội bị địch phục kích. Ông
Lư Văn Nén (Hai Nén)1 hoạt động trong chiến khu Phước
An, khi trở về Phú Hội bị địch bắn chết vào ngày 29-6-1951
tại dốc rẫy Bàu Lồng. Người thân trong gia đình nghe tin,
tìm đến để đem xác chôn cất.
Cuối năm 1951, bộ đội Hồ Văn Long sau huấn luyện và
củng cố được đưa trở lại địa bàn huyện Nhơn Trạch - Long
Thành chiến đấu. Có cơ sở vũ trang, huyện thực hiện chủ
trương chia khu, đưa cán bộ về phụ trách đồng thời phân tán
lực lượng vũ trang huyện theo khu chủ yếu làm nhiệm vụ vũ
trang tuyên truyền. Địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành được
chia thành 5 khu: Xã Phú Mỹ, Mỹ Hội cùng các xã Long
Tân, Phước Thiền thuộc Khu II do đồng chí Trần Bình Khê,
đồng chí Tám Thạch phụ trách; Khu I gồm các xã Phước
Nguyên, An Lợi, Tam An, Phước Tân do đồng chí Lê Phải
và đồng chí Nguyễn Văn Xuất phụ trách; Khu III gồm các
xã Phước Thành, Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý thuộc
1  Ông Lư Văn Nén là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Đào Thị Phấn
(1911-2009).
123

13.4 Page 124

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
khu III do đồng chí Nguyễn Sanh Thành phụ trách; Khu IV
gồm các xã Bình Thạnh, Phước An, Phước Long, Phước
Thọ do thường trực Huyện ủy và Ủy ban phụ trách; Khu V
gồm các xã Thái Thiện, Phước Kiển, Phước Lai, Long An,
Tuy Long, Tập Phước thuộc khu V do Huyện đội phụ trách.
Riêng thị trấn, các xã Lộc An, Bình Sơn, An Viễng, Siph
thành một khu do đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách kiêm
chính trị viên biệt động đội.
Do chuyển được phương thức hoạt động đúng hướng,
bám được dân, tình hình kháng chiến Nhơn Trạch - Long
Thành dần ổn định. Tuy nhiên, tình hình địa bàn vẫn nhiều
khó khăn khi Pháp bổ sung thêm lực lượng lính Hòa Hảo,
cùng với lính Cao Đài và biệt kích trước đó tăng cường đánh
phá, kiềm kẹp nhân dân. Cơ quan cách mạng phải di chuyển
nhiều nơi, lưu động trong thời gian dài tránh sự tấn công,
lùng ráp. Một số cơ sở cách mạng bị cắt đứt, không còn liên
lạc. Ở Phú Hội, đồng chí Nguyễn Văn Mật1 hy sinh khi địch
càn quét.
Đầu năm 1952, địch tiếp tục đưa về Long Thành sắc
lính mới: Đại đội 18 lính Hòa Hảo, quân số 120 tên, đóng
ở Phước An, Long Tân với địa bàn hoạt động vùng Lòng
Chảo. Lính Hòa Hảo dồn dân kiểm soát gắt gao và rất lộng
hành, bắt bớ tra khảo người dân. Địa bàn xã Mỹ Hội địch
1  Đồng chí Nguyễn Văn Mật sinh năm 1906, là chồng kế của mẹ Việt Nam
anh hùng Lâm Thị Bửu (1919 - 2009).
124

13.5 Page 125

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
chiếm đóng. Đồng bào ở các vùng lân cận muốn về làm
ruộng, vườn trên đất cũ phải làm giấy xin phép và lúa khi
thu hoạch phải mang hết về Mỹ Hội. Mỗi buổi sáng đi làm,
mỗi người phải đem theo 1 tảng đá hoặc vài chục gạch từ
Mỹ Hội xuống trình diện, nộp cho lính tại đồn Hòa Hảo,
làm các công việc chúng sai xong mới được đi. Người dân
sống trong kiềm kẹp, căng thẳng. Lực lượng lính Cao Đài
cũng hoành hành khắp nơi. Lính biệt kích từ Chi khu Long
Thành không ngừng hành quân lùng sục vào các lõm căn cứ
của huyện, xã. Ngày 6-7-1952, đồng chí Nguyễn Văn Cớ1 -
Đại đội phó của Đô Lương thuộc biên chế huyện Đội Long
Thành hy sinh khi đi điều nghiên để đánh vào bót địch ở Phú
Hội. Quê ở miền Bắc vào làm phu cao su ở Sở Tân Tường,
thoát ly tham gia cách mạng từ năm 1945, đồng chí hy sinh
khi lọt vào ổ phục kích của kẻ thù.
Giữa lúc cách mạng đang gặp tổn thất bởi những cuộc
phản kích điên cuồng của địch thì một khó khăn nữa ập tới.
Tháng 10-1952, miền Đông bão lụt nặng nề, gây khó khăn
cho hoạt động cách mạng. Trong và sau bão lụt, các căn cứ
lâm vào tình trạng thiếu lương thực. Đường dây liên lạc, vận
chuyển lương thực khó khăn khi địch nhân cơ hội ruồng bố,
càn quét chia cắt giao thông.
1  Chồng của bà Lê Thị Y (1928 - 2000), là cơ sở cách mạng, được phong
tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994, có chồng là liệt sĩ thời kháng
chiến chống Pháp, con là liệt sỹ Nguyễn Thanh Sơn, hy sinh năm 1969.
125

13.6 Page 126

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Vượt qua những gian nan của bão lụt, kể từ đầu năm
1953, các cơ quan huyện tập trung về rừng Sác và rừng
Giồng, xây dựng căn cứ. Bộ đội địa phương đã đủ mạnh,
vừa bảo vệ căn cứ, vừa chủ động đánh địch. Không những
thế, theo chủ trương của huyện, một số cán bộ trong đơn vị
được đưa về nắm du kích xã. Nhờ vậy phong trào vũ trang ở
cơ sở cũng phát triển. Lực lượng du kích nhiều xã đã có từ
10 đến 12 tay súng. Xã ít cũng có 1 bán đội 5 đến 6 đồng chí.
Tiếng súng tiến công của lực lượng vũ trang Long Thành lại
nổ đều khắp nơi1. Hoạt động của lực lượng vũ trang đã có
tác động mạnh tới phong trào quần chúng. Cuối năm 1953,
ở các vùng dồn dân đều có phong trào đấu tranh đòi về làng
cũ làm ăn. Nhiều lõm chính trị được hình thành. Ở Mỹ Hội,
Phú Hội, Phước An, Bà Ký, cán bộ và du kích đã có thể bám
trụ bí mật trong nhà dân ban ngày để nắm tình hình địch.
Trên chiến trường cả nước, lực lượng cách mạng tổ
chức nhiều chiến dịch quân sự, chủ động tấn công vào quân
đội Pháp và chính quyền tay sai. Những tháng đầu năm 1954,
thắng lợi của cách mạng trên khắp các chiến trường đã có
ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào kháng chiến Nhơn Trạch,
1  Trong năm 1953, nhiều trận đánh địch ở Nhơn Trạch, Long Thành nổ
ra: Tháng 4, ta tấn công lính tuần tiễu đường Phước Long-Phước Lai,
tấn công đồn Phước Lai bị đánh; Tua Bến Ngự (Phú Hữu) bị bộ đội và
du kích liên xã tiêu diệt. Tháng 7-1953, du kích xã phối hợp với đặc công
tỉnh đột nhập vào khu dồn dân Bào Trường, Phước An, tiêu diệt toàn bộ
trung đội lính.
126

13.7 Page 127

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Long Thành. Song song với hoạt động vũ trang, công tác
địch vận được đẩy mạnh. Thế nhưng, những cán bộ, chiến
sĩ bám trụ ở Phú Hội hoạt động vẫn đối diện với những khó
khăn, hy sinh khi địch liên tục càn quét, mật phục. Đồng
chí Trần Văn Cội1 - Trưởng ban Mặt trận xã Phú Hội hy
sinh. Đồng chí Sáu Nhỏ2 - chủ tịch, chỉ đạo chiến đấu ở địa
bàn Phú Mỹ, Mỹ Hội khu Lòng Chảo bị kẻ thù phục kích,
sát hại. Chúng lưu xác đồng chí lại nhằm giăng bẫy bắt các
đồng chí khác. Lực lượng cách mạng cử người bí mật lấy
xác, đem chôn.
Ngày 7-4-1954, Tiểu đoàn 300 của lực lượng vũ trang
cách mạng tổ chức chống Pháp càn quét, đã tiêu diệt sĩ quan
Pháp Jolet Suacot. Tin Jolet Suacot bị đền tội đã gây một
tiếng vang lớn, đem lại niềm vui cho nhân dân Nhơn Trạch,
Long Thành. Tội ác dã man và những hậu quả khủng khiếp
của chúng gây ra kéo dài trong một thời gian dài. Trên chiến
trường Nhơn Trạch, Long Thành, lực lượng cách mạng đã
chuyển sang thế áp đảo địch. Du kích các xã phát triển mạnh.
Lực lượng biệt kích của địch hoảng sợ và không dám bung
ra càn quét như trước. Hội tề ở các xã hoang mang, lính co
lại trong các đồn bót.
1  Đồng chí Trần Văn Cội là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn
Thị Thế (1899-1983).
2  Đồng chí Sáu Nhỏ là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị
Hường (1922-2000).
127

13.8 Page 128

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Ngày 21-7-1954, trên cơ sở chiến thắng của cách mạng
Việt Nam, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ
về đình chiến, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Một bộ phận
cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở Nhơn Trạch, Long Thành lên
đường ra Bắc tập kết với hy vọng trở về sau khi thực hiện
Tổng tuyển cử theo quy định trong Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Nhân dân Phú Hội vui mừng ngày chiến thắng trải qua chín
năm kháng chiến biết bao gian khổ, tiễn đưa những cán bộ,
chiến sĩ thân thương đến các địa điểm tập kết Xuyên Phước
Cơ (Bà Rịa) để ra Bắc, mong chờ đất nước thống nhất.
Trải qua những năm tháng chiến tranh, nhiều cán bộ,
chiến sĩ, du kích đã ngã xuống trên mảnh đất quê hương từ
đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhiều thanh niên của xã
Phú Hội đã tòng quân, tham gia kháng chiến trên quê hương
Long Thành, Nhơn Trạch và các nơi khác ở Nam Bộ. Các
thế hệ nối tiếp nhau, từ truyền thống kiên cường của cha ông
đến tinh thần chiến đấu bất khuất cho “thù nhà, nợ nước”,
nhân dân Phú Hội đã nuôi giấu, che chở, phục vụ cách mạng
trên các mặt trận đánh thù, cả vũ trang và chính trị, binh vận.
Quân dân Phú Hội cũng gánh chịu nhiều đau thương, mất
mát và hy sinh nhưng lòng dân vẫn trung thành, hướng về
cách mạng trong sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm,
giải phóng quê hương cho đến thắng lợi cuối cùng.
128

13.9 Page 129

▲back to top


Chương IV
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
1. Đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang
(1954 - 1960)
Ngày 20-7-1954, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết. Người dân Phú
Hội cùng Nhơn Trạch, Long Thành vui mừng trước những
thành quả, thắng lợi sau chín năm kháng chiến đầy gian khổ.
Theo Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền với
ranh giới quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17. Sau hai năm, hai
miền Nam Bắc sẽ thực hiện Tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước. Miền Bắc của Việt Nam độc lập, chính quyền cách
mạng lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền
Nam tạm thời bị tạm chiếm. Những cán bộ, chiến sĩ cách
mạng ở miền Nam chuyển quân tập kết ra miền Bắc hay bố
trí ở lại hoạt động đều vui mừng, hy vọng lệnh ngừng bắn sẽ
sớm được thực thi ở Nam Bộ, chiến tranh sẽ chấm dứt. Xã
Phú Hội huyện Long Thành (bao gồm cả phần Nhơn Trạch)
trực thuộc tỉnh Bà Chợ (tức Bà Rịa - Chợ Lớn) theo sự phân
chia của Trung ương Cục miền Nam từ năm 1951.
129

13.10 Page 130

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Huyện Long Thành lúc bấy giờ đặt trong vòng kiểm
soát của chính quyền Liên hiệp Pháp theo quy định của Hiệp
định Giơ-ne-vơ. Nhân dân Phú Hội, Long Thành vô cùng
phấn khởi, tin tưởng vào hòa bình đã được các bên ký kết,
mong chờ đất nước hoàn toàn thống nhất khi thực hiện Tổng
tuyển cử. Với âm mưu xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ
từng bước hất cẳng thực dân Pháp, dựng chính quyền tay
sai ở miền Nam Việt Nam, xây dựng thuộc địa kiểu mới.
Tháng 7-1954, đế quốc Mỹ hỗ trợ Ngô Đình Diệm về miền
Nam làm thủ tướng rồi lên Tổng thống, xây dựng bộ máy
chính quyền thân Mỹ, thành lập quân đội tay sai, tiến hành
khủng bố phong trào cách mạng miền Nam bằng nhiều thủ
đoạn thâm độc.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng đã thảo luận
về nhiệm vụ cách mạng trong hội nghị lần thứ VII. Đảng ta
nhận định: “Đế quốc Mỹ đã trở thành kẻ thù chính và trực
tiếp của nhân dân ta” và chỉ rõ “cần tập trung mũi nhọn tấn
công vào đế quốc Mỹ, bọn hiếu chiến Pháp và bọn tay sai
của chúng, tiến hành củng cố hòa bình, hoàn thành độc lập
và dân chủ trong cả nước”. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã
ra nghị quyết về “Tình hình nhiệm vụ mới và chính sách
của Đảng”, Nghị quyết đã xác định: “ ...nhiệm vụ đấu tranh
giải phóng của nhân dân ta chưa phải đã hoàn thành, cuộc
đấu tranh ái quốc không vì đình chiến mà kết thúc, cuộc đấu
tranh đó còn đang tiếp tục nhưng phương thức đấu tranh cần
phải thay đổi... Đảng phải lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tranh thực hiện hiệp định đình chiến, cải thiện dân sinh, thực
hiện thống nhất và tranh thủ độc lập”1.
Đầu tháng 12-1954, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu
Khánh) được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư
Huyện ủy Long Thành. Tháng 1-1955, Hội nghị Ban Chấp
hành Đảng bộ Long Thành được tổ chức. Hội nghị đánh giá
tình hình của địa phương và đề ra chủ trương: Kiện toàn cơ
sở Đảng ở tất cả các xã, nơi nào trống, xây dựng chi bộ. Tiếp
tục tuyên truyền hiệp định, vận động nhân dân tăng gia sản
xuất, xây dựng các tổ chức quần chúng hợp pháp. Huyện ủy
phân công các đồng chí ủy viên về từng địa bàn chỉ đạo trực
tiếp. Địa bàn xã Phú Hội, Long Tân do đồng chí Tám Tánh
chỉ đạo2. Long Tân cùng các xã Nhơn Trạch, Long Thành
đều xuất hiện hội đình, hội chùa, hội tương hữu, vạn cấy...
tập hợp quần chúng. Thông qua họp hội, cán bộ, đảng viên
lồng vào nội dung tuyên truyền thắng lợi Hiệp định Giơ-ne-
vơ, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở cách mạng. Nhằm
đánh phá cơ sở cách mạng, chính quyền địch truy tìm cán
1  Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, những sự kiện quân
sự. Nxb. Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1980, tr.11-12.
2  Các địa bàn khác ở Nhơn Trạch, Long Thành được phân công: đồng
chí Út Mười Hai (tức Út Vồ) đến vùng Tam An, An Lợi; đồng chí Ba Đông
phụ trách địa bàn Long An, Long Phước; đồng chí Tư Lộc phụ trách địa
bàn Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý; đồng chí Mai Hiển Thái (Ba Thái)
phụ trách vùng đồn điền cao su; đồng chí Tư Lộc về Phú Hữu, Phước
Khánh, Phước Lý; đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định) về địa bàn Phước
An, Phước Thọ...
131

14.2 Page 132

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
bộ, chiến sĩ, đảng viên tham gia cách mạng, quần chúng đấu
tranh: Không được trả thù người kháng chiến cũ, yêu cầu
thực hiện tổ chức Tổng tuyển cử.
Tháng 4-1955, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đấu tranh
trong tình hình mới, chính quyền cách mạng chia tỉnh Biên
Hòa và Thủ Dầu Một như trước trên cơ sở tách ra từ tỉnh
Thủ Biên. Xã Phú Hội huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà
Chợ trở về trực thuộc tỉnh Biên Hòa. Huyện ủy Long Thành
được chỉ định thành lập1. Lãnh đạo Huyện ủy gồm: Đồng
chí Trần Bình Khê (Quyền Bí thư), đồng chí Hai Lãng (Phó
Bí thư), đồng chí Tám Thạch (ủy viên Thường vụ), Mai
Hiển Thái (Ba Thái), Tám Tánh, Sáu Phong (ủy viên), xây
dựng căn cứ bí mật ở rừng Sác địa bàn Phước Thọ (huyện
Nhơn Trạch hiện nay). Huyện ủy Long Thành tổ chức cho
cán bộ, chiến sĩ tập huấn, nắm bắt được chủ trương của Tỉnh
ủy, của huyện về việc tạo mọi điều kiện đưa cán bộ, đảng
viên vào bên trong xã, ấp bám dân, bí mật xây dựng cơ sở
lâu dài cho cách mạng, phát động quần chúng bung về đất
cũ, chống khủng bố người kháng chiến cũ, đấu tranh đòi
địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ... Cuối tháng 9-1954,
gần 200 cán bộ ở các xã của Nhơn Trạch, Long Thành được
tổ chức học tập, nắm kỹ chủ trương, phương thức hoạt động.
1  Huyện ủy Long Thành lúc bấy giờ đóng tại căn cứ Rừng Sác. đồng chí
Trần Bình Khê - quyền Bí thư, đồng chí Hai Lãng - Phó Bí thư, đồng chí
Tám Thạch, ủy viên thường vụ và các đồng chí Huyện ủy viên gồm Ba
Thái, Tám Tánh, Sáu Phong (Hùng Chinh).
132

14.3 Page 133

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Từ tháng 3-1955, chính quyền Sài Gòn bắt đầu bố trí
một bộ phận đồng bào theo đạo Công giáo ở miền Bắc di
cư vào Nam đến định cư trên vùng đất Nhơn Trạch, Long
Thành. Vùng Phước Lý (Đại Phước), Ông Kèo bao quanh
phía Nam Lòng Chảo, tổng kho Thành Tuy Hạ và Phước
Khánh được bố trí khoảng 4.000 người. Trong khi đó các
trại tại Liên Kim Sơn - vành đai thị trấn Long Thành khoảng
3.000 người. Thực tế, việc chính quyền địch lấy đất của
người dân địa phương để lập trại đưa đồng bào di cư đến,
kèm theo những chính sách gọi là “ưu đãi” như cấp đất,
khoanh vùng, cấp đồ dùng, vật dụng, làm nhà, cho tự do
khai phá rừng Giồng, rừng Sác... nhằm thực hiện âm mưu
tạo ra một vành đai bảo vệ những khu vực quan trọng của
chính quyền Sài Gòn, đồng thời tạo sự chia rẽ trong nhân
dân để thuận lợi kiểm soát, đánh phá phong trào cánh mạng.
Địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành trở nên phức tạp
khi lực lượng Bình Xuyên của Lê Văn Viễn bị chính quyền
Sài Gòn tấn công, trú đóng tại Rừng Sác. Xứ ủy Nam Bộ cử
đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) đến Long Thành,
phối hợp lãnh đạo địa phương thực hiện công tác binh vận
với lực lượng này. Một số đơn vị trong lực lượng Bình
Xuyên bị tấn công, ngã về phía cách mạng, được hướng dẫn
rút về căn cứ, chịu sự quản lý của chính quyền cách mạng.
Một số vũ khí của lực lượng Bình Xuyên khi rút chạy, được
quân dân Nhơn Trạch - Long Thành thu gom, trang bị cho
133

14.4 Page 134

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
địa phương1. Khi chính quyền Sài Gòn thực hiện tấn công
lực lượng Bình Xuyên, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho
các xã tích cực liên hệ, vận động lực lượng Bình Xuyên để
phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến bộ về
với cách mạng; đồng thời vận động binh lính Bình Xuyên
tiêu diệt một số tên ác ôn tại địa phương.
Thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới, đế quốc Mỹ hỗ trợ Ngô Đình Diệm gây dựng
thanh thế. Ngày 26-10-1955, sau cuộc trưng cầu dân ý, Ngô
Đình Diệm thay Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính phủ
Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền
Ngô Đình Diệm đứng đầu thực hiện hành động phá hoại hiệp
định đã ký kết, mua chuộc, lôi kéo và trấn áp các lực lượng
vũ trang chống đối, những người yêu nước và đặc biệt nhắm
vào phong trào cách mạng ở miền Nam. Sau cuộc trưng cầu
dân ý có tính chất độc diễn vào ngày 26-10-1955, Ngô Đình
Diệm lên thay Quốc trưởng Bảo Đại, ra tuyên cáo thành lập
Việt Nam Cộng hòa, lấy danh nghĩa tổng thống theo Hiến
ước tạm thời. Khi chính quyền Sài Gòn tấn công lực lượng
Bình Xuyên, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho các xã tích
cực liên hệ, vận động lực lượng Bình Xuyên để phân hóa
hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến bộ về với cách
1  Nửa quân số còn lại tiểu đoàn 3 do Bảy Môn chỉ huy được các đồng
chí Tư Thái, Mười Thọ đưa về căn cứ Suối Cả của tỉnh Biên Hòa. Một bộ
phận tàn quân khác cũng thuộc tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư Đại chỉ huy
chạy về núi Thị Vải được Huyện ủy Long Thành nắm.
134

14.5 Page 135

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
mạng; đồng thời vận động binh lính Bình Xuyên tiêu diệt
ác ôn tại địa phương. Chính quyền Sài Gòn dấn bước thêm
vào hành động phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ bằng kế hoạch
tổng tuyển cử riêng rẽ bầu cử Quốc hội lập hiến ở miền
Nam Việt Nam. Trước bầu cử, ở Nhơn Trạch, Long Thành,
chính quyền địch giăng biểu ngữ, áp phích, phát loa ủng hộ
Ngô Đình Diệm, kèm theo ảnh quần áo, máy cày... với cách
tuyên truyền ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa là
hướng đến tương lai “văn minh, cơm ngon, áo đẹp”. Bộ máy
các xã tổ chức kiểm tra hộ khẩu lập sổ gia đình, làm thẻ cử
tri thay giấy thông hành, tạo thế kiểm soát chặt chẽ những
gia đình kháng chiến. Trước tình hình đó, Huyện ủy Long
Thành chủ trương phát động phong trào chống phá bầu cử
của chính quyền Sài Gòn. Các tổ thanh niên xã ra căn cứ chi
bộ đóng ở Rừng Sác nhận truyền đơn, giấu trong các thùng
đựng đường đem về tuyên truyền. Truyền đơn có nội dung
“Đả đảo bầu cử bất hợp pháp”, “Mỹ Diệm phải thực hiện
Hiệp định Giơ-ne-vơ. Phải thực hiện tổng tuyển cử”... được
rải khắp xóm, tới sát nhà hội đồng xã.
Ngày 4-3-1956, ở Long Thành diễn ra bầu cử trong
một không khí tẻ nhạt. Địch điều quân lính rải khắp các xã,
những tên cảnh sát chìm được cài, lảng vảng suốt ngày ở
các khu vực bầu cử vì lo sợ bị lực lượng vũ trang cách mạng
tấn công. Hội đồng xã chạy đến từng nhà thúc người dân
đi bỏ phiếu. Người dân được tuyên truyền chống phá bầu
cử bằng cách không tham gia, nếu buộc phải đi bỏ phiếu
135

14.6 Page 136

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thì làm phiếu rách, quệt bã trầu, gạch, xóa phiếu lung tung
để phiếu hư, không hợp lệ. Tại Phú Hội, truyền đơn được
rải ngay vào chợ giữa ban ngày. Cho tới cuối ngày, có xã
ở Nhơn Trạch, Long Thành chỉ được nửa số cử tri đi bầu.
Bằng những thủ đoạn, chính quyền Sài Gòn tuyên bố bầu cử
thành công. Ngày 6-4-1956, Quốc hội của Việt Nam Cộng
hòa ra hiến pháp.
Sau khi đánh bại các lực lượng vũ trang chống đối,
chính quyền Sài Gòn tăng cường lực lượng chính trị ở các
thiết chế cấp xã toàn miền Nam để quyết tâm đẩy lùi, đánh
phá tận gốc các phong trào cách mạng trong quần chúng.
Trong tình hình chung, ban hội tề ở xã thuộc Nhơn Trạch,
Long Thành được thay thế bằng hội đồng xã, có lực lượng
cảnh sát. Số hương quản trong hội tề cũ tại các xã được đưa
lên Long Thành, Biên Hòa học về công tác an ninh. Thành
phần trong hội đồng tập trung là bọn ác ôn, địa chủ và đặc
biệt là một số cán bộ kháng chiến cũ mà địch dụ dỗ, lôi kéo
với mục đích vừa khống chế các gia đình kháng chiến vừa
làm mất uy tín cách mạng trong nhân dân. Dân vệ được
xây dựng, mỗi xã 1 tiểu đội trang bị vũ khí đầy đủ. Chính
quyền địch thành lập bộ máy tố cộng từ huyện xuống xã
ấp để phát hiện, truy lùng cán bộ, chiến sĩ “bám trụ” trong
dân. Đồng thời, địch đẩy mạnh các phong trào “Cách mạng
quốc gia” gồm các đoàn thể để hoạt động chống cộng như:
“Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ cộng hòa”. Các gia đình
có người tham gia kháng chiến bị địch thường xuyên theo
136

14.7 Page 137

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
dõi, khám xét, truy vấn. Lực lượng công dân vụ, cảnh sát,
chỉ điểm hàng ngày theo dõi người dân có tư tưởng chống
đối, đặc biệt những nhà tham gia cách mạng trước đây gắt
gao. Những hoạt động của địch đã gây nhiều khó khăn cho
phong trào cách mạng. Đồng chí Khánh Phương cán bộ phụ
nữ tỉnh cùng 2 cơ sở là chị Mười Hạnh, chị Sáu Ngài và
đồng chí Tư Lộc (binh vận), Mười Điện (Phú Mỹ), Sáu Kiên
(Mỹ Hội) bị bắt ở Phú Hội.
Thực hiện chính sách “Chống Cộng” của chính quyền
Sài Gòn, tại Long Thành, địch mở lớp “Tố Cộng”, cố tình
nói không đúng về nội dung hiệp định trong tổng tuyển cử
thống nhất đất nước, vu khống cộng sản cướp công kháng
chiến, cướp công chống Pháp, nói xấu chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, kêu gọi tri ân Ngô Đình Diệm và chính
nghĩa quốc gia. Hoạt động tố cộng được tổ chức rộng khắp
các địa bàn, phát truyền đơn chống cộng. Chúng lợi dụng
một số người di cư bị mua chuộc, một số người từng tham
gia kháng chiến nay đầu hàng xuyên tạc, tác động tâm lý để
dân chúng tin theo mà “Ly khai Cộng sản”. Một thủ đoạn
thâm hiểm là địch tổ chức xé cờ Đảng cho người nào ủng
hộ chính quyền Sài Gòn. Một không khí ngột ngạt bao trùm
các xóm ấp.
Huyện ủy Long Thành chỉ thị cán bộ, đảng viên không
được tham gia học tố cộng và tổ chức vận động quần chúng
tẩy chay tố cộng bằng mọi hình thức. Mặt khác, dưới sự chỉ
137

14.8 Page 138

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đạo của tỉnh, sau khi thành lập Ban binh vận, huyện chủ
trương tăng cường gài người vào chính quyền ngụy để tạo
thế lâu dài và trước mắt là hạn chế sự đánh phá ở cơ sở.
Trong tình hình khó khăn chung do chính quyền Sài
Gòn đàn áp, đánh phá, sự kiện nổi dậy phá khám ở Trung
tâm cải huấn Biên Hòa đã cổ vũ cho quân dân cách mạng.
Sau thời gian chuẩn bị, vào lúc lúc 17 giờ 40 phút chiều
ngày 2-12-1956, cán bộ, đảng viên và những người yêu
nước trong nhà lao Tân Hiệp đã phá khám và thoát ra khỏi
sự giam cầm của kẻ thù. Những cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở
Nhơn Trạch - Long Thành theo hướng Trị An, sau đó về Bà
Rịa và quay trở lại hoạt động ở địa phương1. Cùng với các
xã khác như Phước Thọ, Phước Long, Phước Thái, Long
Phước, Long An, các cơ sở cách mạng của Phú Hội giúp
đỡ cán bộ, chiến sĩ vượt ngục trở về các vùng an toàn hoặc
tránh được sự truy bắt của địch. Trên địa bàn Phú Hội, có
hai nữ chiến sĩ từ cuộc vượt ngục theo hướng Long Thành
đến tạm ẩn. Ông Huỳnh văn Khôi, cán bộ thời kỳ kháng
chiến chống Pháp được bố trí ở lại hoạt động sau 1954, biết
tin đã tìm cách hỗ trợ. Thông qua cơ sở cách mạng là chị
1  Sau thời gian chuẩn bị, lúc 17 giờ 40 phút chiều ngày 2-12-1956, cuộc
phá khám diễn ra. Chính quyền địch tổ chức truy kích sau đó làm một số
cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Kết quả có 462 cán bộ, đảng viên, người yêu nước
thoát khỏi nhà giam. Đây là cuộc nổi dậy phá khám quy mô và giành được
thắng lợi trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ của cách mạng miền
Nam. Địa điểm nhà lao Tân Hiệp nay thuộc phường Tân Tiến, thành phố
Biên Hòa, được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Nguyễn Thị Nhường (buôn bán tại chợ Đại Phước), giúp
quần áo, cải trang thành người dân, đưa từ Phú Hội vượt
qua chốt Thành Tuy Hạ bằng ghe, tới chợ Phước Lý (Đại
Phước). Sau đó, hai nữ chiến sĩ tìm cách vượt về Sài Gòn
thành công, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Bước sang năm 1957, Mỹ - Diệm càng tăng cường
đánh phá phong trào cách mạng miền Nam. Thực hiện chủ
trương “Đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, địch mở
chiến dịch Nguyễn Trãi đánh vào miền Đông Nam Bộ. Ở
Long Thành, lính địch lại tiếp tục chà sát lùng sục khắp các
địa bàn. Đây cũng là thời gian địch bắt đầu thực hiện chính
sách “Cải cách điền địa” trong phạm vi toàn huyện. Trên địa
bàn Nhơn Trạch, Long Thành, số ruộng đất mà địch “tịch
thu” phần lớn là đất đã được chính phủ cách mạng chia cho
nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và một
phần đất bỏ hoang mà nông dân đã khai phá, đang canh tác.
Huyện ủy Long Thành chủ trương đẩy mạnh tuyên
truyền trong nhân dân và trong giới địa chủ, vạch rõ âm
mưu thâm độc của chính quyền Sài Gòn, đồng thời vận động
nhân dân chống “xáo canh, tăng tô” và “giữ nguyên canh,
tăng cường đoàn kết nông thôn”. Phong trào đấu tranh nhân
dân ta trong việc chống “Cải cách điền địa” của chính quyền
Diệm làm cho người dân phấn khởi. Nhiều nơi, địch giăng
khẩu hiệu có nội dung đe doạ, trấn áp tinh thần người dân
như: “Việt Cộng là bán nước”, “Diệt Cộng là yêu nước”, “Tố
139

14.10 Page 140

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Cộng là yêu nước”, “Tri ân Tổng thống Ngô Đình Diệm”...
Được cách mạng tuyên truyền, người dân bí mật phá, bỏ
những khẩu hiệu địch treo, dán ở nhiều nơi.
Trên cơ sở đó, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo đẩy
mạnh việc nắm tề xã, dân vệ và phát động dân “Thanh khiết
xóm ấp” để tạo điều kiện thuận lợi cho việc “điều lắng” và
hoạt động xây dựng cơ sở1. Phong trào thanh khiết xóm ấp
lan rộng, nhờ đó các lõm chính trị hình thành ở nhiều xã.
Địa bàn Xóm Hố của xã Phú Hội thực hiện phong trào hiệu
quả. Đối với những người từ bên ngoài vào địa phương,
người dân thực hiện ba không “không biết, không nghe,
không thấy” để đảm bảo an ninh cho cán bộ, đảng viên, cơ
sở cách mạng.
Khi thực hiện chiến dịch Trương Tấn Bửu, chính
quyền Sài Gòn tổ chức lùng sục, bắt giam những người từng
tham gia kháng chiến chống Pháp trước đây và nghi ngờ có
hoạt động với cách mạng ở miền Nam. Trên địa bàn Phú
Hội, địch bắt một số người: ông Hai Ngài, ông Mười Mãnh,
Chín Chiến, Năm Chẩn, Tư Dựng, Ba Nhứt, Năm Tuấn, Ba
Viện, Tám Mên, Ba Ớt (Thanh Bình)... Địch bắt và tra tấn,
đem đi giam cầm ở nhà lao Biên Hòa. Ông Hài Ngài, Mười
Mãnh bị đưa đi ra ngoài nhà tù Côn Đảo cho đến chết. Trước
1  “Thanh khiết xóm ấp” tức là làm trong sạch xóm ấp, tuy không diệt ác,
nhưng cô lập, bưng tai, bịt mắt, cắt đứt các nguồn tin làm mất tác dụng
của bọn chỉ điểm do thám ở địa phương. Đối với những sắc lính bên ngoài
tới, người dân thực hiện ba không “Không biết, không nghe, không thấy”.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tình hình đó, chi bộ Đảng đứng ra vận động quần chúng
đấu tranh yêu cầu chính quyền địch bắt người dân vô tội,
không được khủng bố, trả thù những người tham gia cách
mạng trước đây. Bọn chỉ điểm tề xã ác ôn còn hoạt động
mạnh. Một số cán bộ, đảng viên từ xã Long Tân, Phú Thạnh
cũng chỉ còn một đồng chí phải rút đến Xóm Hố xã Phú Hội
để hoạt động cách cơ động, liên tục di chuyển tránh địch
truy lùng.
Sự tăng cường hệ thống kìm kẹp bên trong kết hợp
với đánh phá căn cứ cách mạng của địch làm cho hoạt động
cách mạng ở Long Thành cuối năm 1959 trở nên căng thẳng.
Ở các ấp, ngụy quyền phân chia hộ dân và dán bảng trước
nhà dân thành từng loại: “Gia đình Cộng sản”, “Gia đình có
quan hệ với Cộng sản”, “Gia đình theo quốc gia ”, “Gia đình
không có quan hệ gì” làm dấu hiệu để tiện cho việc theo dõi.
Một số cán bộ, đảng viên mất tinh thần, không chịu được
gian khổ đã đầu hàng địch. Năm 1959, Trần Xuân Hà (Hà
Tư,Tư Trần), Bí thư Huyện ủy Long Thành đầu hàng địch,
gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng. Một số cán
bộ, đảng viên bị Trần Xuân Hà chỉ điểm, dẫn quân lính trực
tiếp đến bắt hay gài bẫy nhân danh thực hiện nhiệm vụ để
địch phục kích. Trong vòng 3 tháng cuối năm 1959, gần 300
cán bộ đảng viên và cơ sở ở Long Thành đã bị địch bắt, cơ
sở cách mạng không hoạt động được1. Tại Phú Hội, tên Hà
1  Trần Xuân Hà được tỉnh điều từ Tân Uyên (Thủ Dầu Một) về làm Bí thư
Huyện ủy Long Thành tháng 3-1958.
141

15.2 Page 142

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Tư dẫn lính vào nhà bà Đào Thị Phấn - người từng nuôi giấu
y thời gian hoạt động cách mạng. Bà Đào Thị Phấn bị địch
bắt, tra khảo vì tội chứa chấp, nuôi giấu Việt Cộng nhưng bà
bình tĩnh đối đáp với chính quyền địch: “Trước đây, ông này
vào bắt ép tôi cho ở và nuôi cơm, vì tôi là dân nên tôi cũng
sợ nên làm theo. Bây giờ, các ông bắt ổng ấy thì bắt tội ổng1
chứ sao bắt tội tôi”. Trước lý lẽ của bà Đào Thị Phấn, địch
giam giữ một thời gian rồi phải thả ra.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Trung ương Đảng
ra Nghị quyết 15 chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang để giải phóng miền Nam. Tháng 5-1959,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 15,
kiểm điểm tình hình trong nước từ khi ký kết Hiệp định
Giơ-ne-vơ và đề ra đường lối cách mạng của cả nước, của
miền Nam. Trong nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt là
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình
Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền
liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập
dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của
nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước
nhà...; phương pháp tiến hành đấu tranh ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân2.
1  “Ổng”: cách gọi chỉ người thứ 3 - tứ chỉ tên Hà Tư trong bối cảnh này.
2  Hội nghị 15 diễn ra vào 2 đợt: đợt 1 vào tháng 1-1959, đợt 2 vào tháng
7-1959.
142

15.3 Page 143

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Đầu năm 1960, phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre
với khí thế cách mạng dâng cao. Ngày 17-1-1960, dưới sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy Bến Tre, nhân dân các xã Định Thủy,
Phước Hiệp, Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày đã nổi dậy
đánh đồn bốt, diệt ác ôn, giải tán chính quyền địch, giành
lấy quyền làm chủ thôn xã. Lực lượng tham gia đông đảo là
phụ nữ, nên được gọi là “Đội quân tóc dài”. Cuộc nổi dậy
lan ra toàn huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre, trở thành cao
trào “Đồng khởi” như nước vỡ bờ nổ ra khắp Nam Bộ, Tây
Nguyên và một số nơi ở miền Trung Trung Bộ tác động đến
phong trào đấu tranh cách mạng, đặc biệt là vùng nông thôn.
Tính đến cuối năm 1960, cả miền Nam có 2.627 xã, người
dân đã giành quyền tự quản ở 1.383 xã. Số dân ở vùng giải
phóng khoảng 5,6 triệu người.
Xứ ủy Nam Bộ kịp thời chỉ đạo Đảng bộ các địa
phương tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và hoạt
động vũ trang, hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm.
Để thúc đẩy hơn nữa các hoạt động đấu tranh vũ trang, Xứ
Ủy Nam Bộ chủ trương tiến hành một cuộc tiến công quân
sự nhằm gây tác động mạnh trên chiến trường, đồng thời lấy
vũ khí của địch trang bị cho các đơn vị vũ trang cách mạng.
Ngày 26-1-1960, Ban Quân sự Liên tỉnh miền Đông
phối hợp với quân và dân Tây Ninh giành thắng lợi lớn trong
143

15.4 Page 144

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
trận tập kích căn cứ Tua Hai của địch ở Tây Ninh1. Tình
hình này tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng Long
Thành. Tại Xóm Hố xã Phú Hội, tháng 2-1960, Thường
vụ Huyện ủy Long Thành đã phân tích tình hình và quyết
định: Xây dựng lực lượng vũ trang đánh địch. Chủ trương
xây dựng lực lượng du kích để đấu tranh nhanh chóng được
truyền về đến các xã. Khoảng giữa tháng 3-1960, Tỉnh ủy
Biên Hòa cử đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) xuống
Long Thành củng cố phong trào.
Triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy Long Thành chia
vùng và phân công các đồng chí là Huyện ủy viên xuống phụ
trách. Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành chia thành 4 vùng:
Các xã Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển đến xã Phước
An, Vĩnh Thanh thuộc vùng III, do đồng chí Võ Văn Lượng
(Tư Định) phụ trách. Vùng I gồm các xã từ Phước Nguyên,
Tam An đến xã Tam Phước, Phước Tân do các đồng chí Út
Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba Tấn phụ trách. Vùng II gồm các xã
từ Long An đến Phước Thái do các đồng chí Ba Đông, Mười
Thọ phụ trách. Vùng IV gồm các xã Long Tân, Phú Thạnh,
xã Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh, Phú Đông do đồng
chí Nguyễn Văn Thông (tên là Nguyễn Chiến Lũy thời kỳ
kháng Pháp, Hai Thông), Tư Liềm phụ trách.
1  Trận đánh Tua Hai, cách mạng diệt 76 quân địch, bắt, giáo dục và thả
tại chỗ hơn 400 quân, thu gần 1.500 khẩu súng các loại. Đây là thắng lợi
đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, châm ngòi cho cao
trào Đồng Khởi ở miền Đông Nam Bộ.
144

15.5 Page 145

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Mỗi vùng căn cứ vào tình hình thực tế, chia thành hai
hoặc ba cụm nhỏ để triển khai Nghị quyết 15. Từng xã tổ
chức được lực lượng du kích từ 3 đến 5 đồng chí. Huyện ủy
đã đề ra các biện pháp cụ thể: Vận động đồng bào cho con
em tham gia lực lượng vũ trang; dựa vào quần chúng tốt,
vận động những gia đình binh sĩ của địch trở về với cách
mạng; thống kê tội ác của địch, trên cơ sở đó phát động quần
chúng đứng lên đấu tranh; tung tin hù dọa, đồng thời thực
hiện tiến công binh vận để làm rã đội ngũ của địch; phân
loại ác ôn, trên cơ sở đó có kế hoạch những tên nào phải
diệt, tên nào bắt để giáo dục. Huyện ủy còn thành lập Ban
diệt ác và cử các đồng chí Mười Nông, Nguyễn Văn Bền
(Bảy Bền) phụ trách. Du kích xã Phú Hội tiến hành diệt tên
L. chỉ điểm nguy hiểm ở vùng lộ 17.
Ngày 9-9-1960, chính quyền Sài Gòn cải tổ đơn vị
hành chính, thành lập quận Nhơn Trạch (quận lỵ đặt tại xã
Phú Thạnh), thuộc tỉnh Biên Hòa trên cơ sở chia tách từ
địa phận quận Long Thành1. Theo nghị định số 858-NV
của chính quyền Sài Gòn, quận Nhơn Trạch có hai tổng
Thành Tuy Trung, Thành Tuy Hạ; trong đó tổng Thành Tuy
Trung gồm các xã Phú Hội, Phước An, Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Phước Mỹ, Phước Thiền, tổng Thành Tuy
Hạ gồm các xã Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước
1  Quận Long Thành gồm các xã ven theo quốc lộ 15 từ An Hòa Hưng đến
xã Phước Thái và các xã theo liên lộ 25 từ xã Lộc An đến xã Bình Sơn;
Quận trưởng là Nguyễn Viễn.
145

15.6 Page 146

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Khánh, Vĩnh Thạnh, Long Tân. Quận trưởng là trung úy
Lê Thiện Phước.
Trong tình hình địch tăng cường binh lực, âm mưu
giành lại thế chủ động trên chiến trường Long Thành,
chính quyền cách mạng quyết định tách Long Thành làm
hai huyện Long Thành1 và Nhơn Trạch. Địa bàn Phú Hội
thuộc huyện Nhơn Trạch cùng với các xã Phước Thiền,
Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh,
Vĩnh Thanh, Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước
Lai, Phước Kiển. Với mục đích tạo thuận lợi cho chỉ đạo
phong trào cách mạng phù hợp với chiến trường, Huyện
ủy Long Thành chủ trương thành lập Ban cán sự Huyện ủy
Nhơn Trạch. Lãnh đạo Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: đồng chí
Võ Văn Định (Bí thư), đồng chí Nguyễn Văn Thông (Phó
Bí thư), đồng chí Phạm Minh Chính, Nguyễn Văn Liềm (Ủy
viên Thường vụ), các Huyện ủy viên: Trần Văn Thọ (Mười
Thọ), Nguyễn Thanh Vân (Ba Vân), Nguyễn Văn Sơn. Căn
cứ Huyện ủy Nhơn Trạch đặt tại rừng Xóm Hố, gần sở Ông
Cố, xã Phú Hội.
Tháng 8-1960, xã Phú Hội được chọn làm điểm diệt
ác đầu tiên để phát động phong trào kết hợp đấu tranh chính
trị, vũ trang toàn huyện và Đội dân quân du kích xã Phú
1  Huyện Long Thành gồm các xã: Long Hưng, An Hòa, Phước Tân, Tam
Phước, An Lợi, Tam An, Phước Nguyên, Siph (Long Đức), Thị trấn (Phước
Lộc), Long An, Long Phước, Phước Thái, Bàu Cạn, Tân Hiệp, Lộc An,
Bình Sơn, Cẩm Đường.
146

15.7 Page 147

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Hội được thành lập. Mở đầu cho phong trào toàn huyện, đội
dân quân du kích xã Phú Hội đã tổ chức diệt tên trưởng ấp
Phú Mỹ và phát động nhân dân toàn xã nổi trống, mõ, đốt
đuốc uy hiếp địch. Lực lượng cách mạng làm chủ ấp ban
đêm, huy động được hàng chục thanh niên tòng quân chiến
đấu, phát triển được cơ sở và phong trào cách mạng xã. Tại
Phú Hội, Đồng chí Nguyễn Văn Muôn (Hai Mến), Lư Văn
Chắc (Ba Vân) cho làm một hình nộm ông Ngô Đình Diệm,
mặc áo dài, khăn đóng và cắm ba mũi tên vào phía trong,
có gài lựu đạn. Vào đêm khuya, cho người đem hình nộm
này dựng trước nhà của một người làm trong chính quyền
địch, rải truyền đơn và treo băng rôn với nội dung: Nhân
dân miền Nam tử hình tên bán nước Ngô Đình Diệm. Buổi
sáng, lực lượng dân vệ bảo an tuần tra, cho lính thu lượm
truyền đơn và trung sĩ Ban đến rút các mũi tên trên hình
nộm. Khi mũi tên thứ hai bị rút ra thì lựu đạn cài bên trong
phát nổ làm trung sĩ Ban và người lính bên cạnh chết ngay.
Trận đánh này làm nức lòng người dân và lính địch cũng
không còn dám ngang tàng như trước. Thời gian sau, lực
lượng cách mạng tiếp tục dựng một hình nộm Ngô Đình
Diệm như trước đây, đặt tại hầm đất khu vực Cầu Sắt. Quân
lính đi càn, phát hiện cho thu lượm truyền đơn, gỡ cờ cách
mạng và bắn vào hình nộm phòng ngừa cách mạng gài lựu
đạn bên trong, sau đó cho dây cột kéo sập hình nộm xuống.
Sau sự kiện lính bắn vào hình nộm Ngô Đình Diệm, cách
147

15.8 Page 148

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
mạng cho viết băng rôn treo lên có nội dung: Hoan hô anh
em binh sĩ Bảo an dân vệ Phú Hội mạnh dạn tử hình tên Việt
gian bán nước Ngô Đình Diệm. Số lính địch kháo với nhau,
chúng ta đề phòng để khỏi bị thương vong thì lại lọt vào kế
của Việt Cộng.
Tỉnh Biên Hòa tăng cường cho Nhơn Trạch, Long
Thành một tiểu đội vũ trang, trong đó có các chiến sĩ chiến
đấu trong đơn vị vũ trang của địa phương trước đây: Nguyễn
Văn Sơn, Đoàn Danh Dự, Dương Văn Mai (tức Hai), Bảy
Phú, Tạ Nông được điều đến Bà Rịa, Tây Ninh và quay trở
lại địa bàn quen thuộc chiến đấu. Đơn vị có đầy đủ vũ khí,
huyện rút thêm một số cán bộ, thanh niên các xã, ấp lên
thành lập đơn vị vũ trang huyện và dự định lấy phiên hiệu
19-5 (Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Ngày 20-12-1960, tại căn cứ cách mạng ở xã Tân Lập,
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Mặt trận giải phóng
miền Nam thành lập đã tác động mạnh mẽ đến cách mạng
miền Nam Việt Nam. Với chương trình hành động 10 điểm,
mặt trận chủ trương đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các
giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, đoàn thể tôn giáo khác
nhau, không phân biệt xu hướng chính trị để kháng chiến
chống Mỹ. Thời gian này, phong trào diệt ác, phá kìm ở
Long Thành đang phát triển mạnh nên đồng bào càng thêm
phấn khởi.
148

15.9 Page 149

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
2. Kết hợp đấu tranh, làm thất bại quốc sách “Ấp
chiến lược” (1961 - 1965)
Tinh thần Đồng Khởi tác động mạnh đến phong trào
cách mạng miền Nam khi đấu tranh chính trị kết hợp với vũ
trang nổ ra khắp nơi. Chính quyền Sài Gòn thực hiện nhiều
biện pháp vẫn không đạt mục đích đàn áp các hoạt động
cách mạng. Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” lấy “Ấp chiến lược” làm
quốc sách. Ấp chiến lược là một kinh nghiệm mà địch rút
ra từ chương trình “khu Trù mật” “ấp Dinh điền”. Mỹ và
chính quyền Sài Gòn đánh giá chương trình này có tính chất
“xương sống” trong các phương cách bình định ở miền Nam
Việt Nam.
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc
Mỹ đề ra kế hoạch Xtalây-Taylo với 3 biện pháp chiến lược:
- Tăng cường xây dựng lực lượng quân ngụy, dùng lực
lượng quân ngụy mạnh do cố vấn Mỹ chỉ huy, được một số
đơn vị quân Mỹ yểm trợ, áp dụng chiến thuật cơ động bằng
máy bay lên thẳng và xe thiết giáp nhanh chóng đập tan lực
lượng cách mạng lúc còn đang nhỏ, yếu.
- Giữ vững thành thị, xây dựng bộ máy kìm kẹp ngụy
quyền thật mạnh để ngăn chặn phong trào đấu tranh chính
trị của quần chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tra-
nh cách mạng ở nông thôn, bình định đồng bằng, lập ấp
chiến lược.
149

15.10 Page 150

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Ra sức phong tỏa biên giới, kiểm soát ven biển, cắt
đứt sự chi viện từ miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam.
Thực hiện kế hoạch này, đế quốc Mỹ hy vọng chính
quyền Sài Gòn sẽ chuyển sang thế tiến công để giành lại
thế chủ động với kế hoạch bình định miền Nam trong vòng
18 tháng.
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp
đánh giá tình hình, đề ra phương hướng và nhiệm vụ công
tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị quyết
định đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh chính trị, đồng thời
đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh
chính trị; tiến công địch cả 2 mặt chính trị và quân sự. Phải
ra sức xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, xây dựng
và mở rộng căn cứ địa, tạo điều kiện và nắm mọi thời cơ
để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm. Bộ Chính trị quyết
định giao cho Quân ủy Trung ương và Ban Thống nhất giúp
Trung ương chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam, quyết
định kiện toàn Trung ương Cục miền Nam và kiện toàn
các cấp uỷ, tăng cường cán bộ, tăng cường việc tiếp tế các
phương tiện, vũ khí, tài chính và mở rộng giao thông liên
lạc với miền Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Nhơn Trạch
tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh kết hợp quân sự và
chính trị. Hàng loạt các trận đột kích diệt ác của lực lượng
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
vũ trang diễn ra ở các xã. Từ năm 1961, có những sự thay
đổi theo bố trí chiến trường của chính quyền cách mạng. Xã
Phú Hội huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà - Biên trên cơ sở
sáp nhập Bà Rịa, Biên Hòa. Trên địa bàn Nhơn Trạch, chủ
trương diệt ác được đẩy mạnh. Những trận diệt ác ở các xã
thuộc Nhơn Trạch đã tác động cổ vũ cho phong trào lan
rộng, tinh thần người dân ngày càng tin tưởng vào kháng
chiến. Ở Phước An, lực lượng cách mạng trừng trị Mười
Hiếm (trước làm mật thám, sĩ quan an ninh trong lực lượng
đặc cảnh miền Đông cho Pháp, sau phục vụ chế độ Sài Gòn)
hoạt động ở Ba Doi trong vai đầu nậu xây dựng, xây dựng
mạng lưới tình báo do thám khu căn cứ Lòng Chảo. Điều
nghiên, nắm sinh hoạt của Mười Hiếm khi cúng chùa, các
đồng chí Tư Định, Tư Thanh, Minh Chính, Hai Sơn phục
kích tiêu diệt. Dù Mười Hiếm cải trang áo the, khăn đóng,
đi lẫn với một số người lớn tuổi vào chùa nhưng vẫn bị phát
hiện, tiêu diệt. Khi nghe tin Mười Hiếm bị cách mạng tiêu
diệt, quận trưởng Nhơn Trạch điều lính bao vây lùng sục
nhưng lực lượng cách mạng đã rút khỏi. Chiều ngày 3-4-
1961, ông L.V.H làm mật báo viên cho địch bị lực lượng
cách mạng tiêu diệt tại ấp Đất Mới với bản án được ghi
“Giải phóng quân miền Nam” thực hiện. Trong đêm ngày
12-5-1961, cách mạng diệt tên Ng.V.Nh làm do thám ở ấp
Phú Mỹ. Trưởng ấp Ng.V.Ph. bị bắt và đánh 8 roi cảnh cáo,
hạ uy thế trước sự chứng kiến của quần chúng.
151

16.2 Page 152

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Nhân dân Phú Hội hưởng ứng cuộc đấu tranh của nhân
dân xã Long An đấu tranh chống địch bắn phá xóm làng,
vườn tược. Ngày 16-8-1961, gần 100 người dân xã Long An
kéo về quận Long Thành đưa ra yêu sách chính quyền địch
không được bắn pháo khu dân cư, cánh đồng Sở Hoàng,
phải bỏ lệnh giới nghiêm. Nhân dân các xã Lộc An, Long
Phước cùng hưởng ứng. Hai ngày sau, gần 400 người dân
của 3 xã chia làm hai đoàn, một đoàn về quận, một đoàn về
tỉnh đấu tranh. Cuộc đấu tranh này giành được thắng lợi với
những yêu sách do nhân dân đưa ra.
Những trận tiến công liên tục của lực lượng vũ trang
cách mạng Nhơn Trạch, Long Thành năm 1961 đã làm cho
chính quyền Sài Gòn lâm vào thế bị động. Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đã phải trực diện đối đầu với cuộc chiến
tranh vũ trang cách mạng của nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Chính quyền Sài Gòn thành lập Ủy ban Liên bộ
gồm Quốc phòng, Nội vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha chiến
tranh tâm lý để chỉ đạo thực hiện quốc sách ấp chiến lược.
Hỗ trợ cho chủ trương này, ở Sài Gòn, Mỹ thành lập “Ủy
ban viện trợ ấp chiến lược” do Truchcart làm chủ tịch và
đánh giá việc thực hiện ấp chiến lược là “xương sống” ở
miền Nam Việt Nam. Thực hiện chủ trương của đế quốc
Mỹ, chính quyền Sài Gòn ban hành sắc lệnh xây dựng ấp
chiến lược trên toàn miền Nam.
152

16.3 Page 153

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Chính quyền địch thực hiện gom dân để lập ấp chiến
lược ở các xã của Nhơn Trạch. Tùy tình hình và đặc điểm
của mỗi xã, chúng xây dựng kế hoạch đánh phá liên tục các
địa bàn để cư dân đang sinh sống phải rời bỏ để gom lại
đưa vào trong ấp chiến lược. Những địa điểm được chọn
thiếp lập các ấp chiến lược ở xây dựng đội ngũ quản lý và
bố phòng chặt chẽ. Địch thực hiện 3 hình thức thiết lập ấp
chiến lược ở Nhơn Trạch: Cư dân tại địa bàn tại chỗ được
quản lý gắt gao gọi là “kìm dân”; cư dân từ nơi khác đưa vào
ấp chiến lược gọi là “tát dân” và ấp chiến lược đặc biệt gồm
những đồng bào di cư trước đây.
Ấp chiến lược được thiết lập với sự bố phòng, canh
gác nghiêm ngặt. Phía ngoài ấp chiến lược trồng các hàng
rào tre dày, tiếp theo là những lớp hàng rào kẽm gai. Trên
hàng rào kẽm gai được gài mìn nhảy và lựu đạn, giữa vòng
ngoài và vòng trong có hệ thống hào sâu khoảng 1m ngăn
cách, lòng hào cắm chông dày đặc. Mỗi ấp đều có một hoặc
nhiều chòi canh có tầm nhìn xa. Các cổng ra vào của ấp
được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân trong ấp được
ra vào để làm ăn với sự theo dõi chặt chẽ. Người lạ muốn
vào ấp phải qua sự kiểm soát, khám người vô cùng chặt
chẽ. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên
ngoài vào dễ bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động.
Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống để lính canh dễ
theo dõi việc di chuyển phía ngoài. Cách bố trí này của địch
nhằm ngăn chống sự đột nhập của lực lượng cách mạng vào
153

16.4 Page 154

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
ấp và đồng thời người dân trong ấp khó có cách vượt thoát
ra ngoài. Trong ấp, địch thành lập những tổ chức Thanh niên
cộng hòa, Phụ nữ cộng hòa nắm tình hình, theo dõi hoạt
động của người dân cùng với những mật vụ, chỉ điểm. Tất
cả những ấp chiến lược đều nằm trong một xã dưới quyền
chỉ đạo của hội đồng tề gồm xã trưởng, ấp trưởng, dân vệ,
cảnh sát, thám báo, điệp báo làm nhiệm vụ bên trong. Bên
ngoài ấp chiến lược gồm những đồn bót bao quanh tạo thành
vành đai bảo vệ. Để hỗ trợ cho việc xây dựng ấp chiến lược,
địch tăng cường càn quét đánh phá, gom dân và rải quân
đóng thành nhiều đồn bốt ven theo các lộ trên địa bàn và
dọc ven theo sông Đồng Môn. Đồng thời, địch bố trí 2 điểm
đặt pháo 105 ly tại Bến Sắn (xã Phước Thiền) và tại chi khu
Nhơn Trạch yểm trợ cho lính khi xúc tát dân ra khỏi các địa
bàn đánh phá. Lực lượng lính được tăng cường gồm 2 tiểu
đoàn và xây dựng thêm 4 trung đội địa phương quân với Bộ
Chỉ huy đặt tại quận lỵ ở xã Phước Thạnh.
Từ năm 1962, đội dân quân du kích xã Phú Hội tập
trung vào nhiệm vụ đánh địch càn quét bên ngoài, cùng lúc
phát động nhân dân chống địch dồn dân lập ấp chiến lược.
Do không “tát được dân” nên địch phải khoanh dân tại chỗ,
tiến hành xây dựng hàng rào ấp chiến lược nhằm đánh bật
đội du kích. Tại Phú Hội, địch tiến hành xây dựng ấp chiến
lược Ấp Chợ, Ấp Xóm Vườn và ấp Xóm Đạo - Cầu Sắt.
Chính quyền địch bắt xâu, bắt lính và ép buộc người dân
tham gia đào hào, đắp bờ bao quanh.
154

16.5 Page 155

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Với những ấp chiến lược tại chỗ, địch tiến hành điều
tra lý lịch và phân loại: Gia đình có người làm cho chính
quyền quốc gia được xếp loại A và treo bảng xanh. Những
gia đình tình nghi có liên lạc với Việt Cộng thì xếp loại B
và treo bảng màu vàng. Những gia đình có người đi theo
Việt Cộng thì xếp loại C và treo bảng sơn màu đỏ. Những
gia đình treo bảng đỏ sẽ bị cô lập, luôn bị theo dõi. Một
dàn tề xã, tề ấp được điều tra và sa thải nếu bị tình nghi là
người của Việt Cộng. Chính quyền địch tổ chức loại hình
tự quản “Ngũ gia liên bảo” để kiểm soát chặt trong khu dân
cư. Trong Ngũ gia liên bảo bầu l liên gia trưởng, chịu trách
nhiệm về an ninh xã, ấp và thực hiện nghĩa vụ của hội đồng
giao. Trong những ấp chiến lược địch ra lệnh mỗi gia đình
phải có gậy, dây, câu liêm, mõ hoặc trống, nếu thấy bóng
người lạ xuất hiện thì gõ mõ đánh trống báo hiệu sẽ có lính
bắt ngay. Vì vậy, những biến động nhỏ trong mỗi liên gia
hay có người lạ xuất hiện thì phải thông tin đến ngay với
chính quyền. Nếu trong liên gia không cung cấp thông tin
thì bị quy kết “thông đồng với cộng sản”, bị hạch sách, làm
khó. Nhằm ngăn chặn người dân trong ấp liên lạc với cách
mạng, chúng quy định khắt khe, người dân ra khỏi ấp lúc 8
giờ sáng để đi làm ruộng, vườn và về trước lúc 3 giờ chiều.
Đồng thời, địch tổ chức nhiều trận đánh vào lực lượng cách
mạng để giữ ấp chiến lược. Đội du kích xã Phú Hội vẫn kiên
trì, từng lúc bám ấp, vừa phá ấp chiến lược vừa vận động
nhân dân cùng phá. Bên trong, ban đêm nhân dân bí mật
155

16.6 Page 156

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
phá ấp, dùng lý lẽ đấu tranh chống địch không làm hại, vừa
quyên tiền mua kềm gửi ra cho bộ đội du kích phá ấp.
Trong thời gian này, đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định)
được điều lên tỉnh nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Nguyễn
Văn Thông được cử làm Bí thư, đồng chí Tư Liềm được chỉ
định làm Phó Bí thư. Lực lượng vũ trang của huyện chỉ có
đơn vị 19/5 gồm 2 trung đội do đồng chí Hai Sơn chỉ huy.
Lực lượng đảng viên cũng quá ít, nhiều xã vẫn còn trắng,
chưa có chi bộ. Huyện ủy Nhơn Trạch đề ra chủ trương:
“Phát động nhân dân đấu tranh phá kế hoạch gom dân, xây
dựng ấp chiến lược của địch. Đấu tranh chống địch rải chất
độc hóa học. Củng cố và phát triển lực lượng vũ trang ở
địa bàn xã và huyện. Bồi dưỡng lực lượng đảng viên, thanh
niên, phụ nữ ở các xã. Đẩy mạnh phong trào diệt ác phá kìm.
Tấn công địch bằng ba mũi giáp công võ trang, chính trị và
binh vận”.
Đầu tháng 3-1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn
Trạch họp bàn và quyết định những chủ trương quan trọng
trong chỉ đạo phong trào đấu tranh, kiện toàn lực lượng và
phát triển toàn diện lực lượng với “thế mới, lực mới”, bám
trụ và bảo vệ địa bàn Lòng Chảo song song với bám trụ xã,
ấp để hoạt động.
Quân dân Nhơn Trạch tiếp tục tiến công địch bằng ba
mũi giáp công vũ trang, chính trị và binh vận nhằm phá
lỏng, phá rã tiến tới phá ấp chiến lược. Đồng thời phát huy
156

16.7 Page 157

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
quyền làm chủ của nhân dân, phát triển lực lượng cả bên
trong lẫn bên ngoài ấp. Khi phát động nhân dân phá ấp chiến
lược, chú ý thu toàn bộ cọc sắt, kẽm gai để xây ô, ụ chiến
đấu gắn với phong trào “bao vây, uy hiếp đồn bót” địch.
Huyện ủy Nhơn Trạch tiến hành kế hoạch đào địa đạo bám
trụ địa bàn, địa điểm chọn là khu rừng tre xã Phước An1. Tổ
chức Phụ nữ xã Phú Hội và đấu tranh chính trị ở ấp Phú Mỹ
1 hoạt động mạnh với sự tham gia của nhiều người trên địa
bàn địa phương. Cô Nguyễn Thị Mai (thành viên của Hội
phụ nữ huyện) bám trụ, đảm trách phong trào ở ấp Phú Mỹ,
vận động phụ nữ thực hiện “Hũ gạo nuôi quân” tiếp tế cho
cán bộ chiến sĩ, vót chông, đắp đường ngăn lính hành quân,
tuần tra.
Hỗ trợ cho việc gom dân, chính quyền địch rải chất
độc hóa học vào các khu người dân sản xuất để ép buộc rời
bỏ, vào vùng chúng kiểm soát, không có điều kiện hỗ trợ
cho các căn cứ cách mạng. Ngày 23-4-1962 tại Tiểu khu
Biên Hòa địch đã công bố kế hoạch “2R-63” triển khai kế
hoạch và địa bàn Long Thành được chọn thí điểm. Địch cho
máy bay C47 từ Biên Hòa mang theo chất độc rải xuống
những địa điểm đã được xác định. Xã Phú Hội chịu nhiều
1  Nay thuộc ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, khu vực cạnh đền thờ
liệt sĩ huyện Nhơn Trạch. Đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo dài 1,5km.
Sau năm 1975, hệ thống địa đạo không còn nguyên vẹn, còn lại 200m,
được quan tâm trùng tu, tôn tạo. Ngày 19-1-2001, hệ thống địa đạo được
Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia (Quyết định
số 04/2001/QĐ-BVHTT).
157

16.8 Page 158

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
ảnh hưởng của chất độc hóa học, vườn cây ăn trái, rẫy ruộng
của người dân (khoai mì, trầu vàng, sầu riêng, chôm chôm,
cao su...) chết dần. Đồng chí Hai Mến họp chi bộ và vận
động người dân kêu gọi linh mục, ban hành giáo nhà thờ
Phú Hội cùng lên tiếng chống đối để bảo vệ tài sản của nhân
dân địa phương nói chung, trong đó có giáo dân. Sự hưởng
ứng tích cực của giáo dân (ông Hai Xinh, ông Năm Xinh,
ông Tám Siêng), những người dân có vườn cây bị thiệt hại
(ông Ba Thiên, bà Ba Sắc, ông Bảy Sánh, ông Khê...) và
hàng trăm người dân làm đơn, yêu cầu tỉnh Biên Hòa điều
tra tội phá hủy tài sản nhân dân và đưa yêu sách bồi thường.
Sáng 18-5-1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ
quan, ban ngành với 250 đại biểu. Đại hội diễn ra tại khu
căn cứ cao su gần bìa rừng Đồng Lớn ở khu Lòng Chảo.
Đại hội xác định dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn
huyện đoàn kết một lòng, quyết tâm góp phần cùng quân
dân cả nước đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay
sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại hội bầu
Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch gồm
13 người: Ngô Quang Thanh (đại diện giới tư sản dân tộc,
Chủ tịch Mặt trận); Nguyễn Văn Bền (Thư ký Nông hội
huyện, Phó Chủ tịch); Nguyễn Văn Thông (diện Đảng Nhân
dân cách mạng huyện, Phó Chủ tịch); Võ Văn Công (Bí thư
huyện đoàn, Tổng thư ký). Các ủy viên: Nguyễn Tâm (Hội
trưởng phụ nữ huyện), Đỗ Thị Thanh Vân (phụ trách công
158

16.9 Page 159

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nhân), Phạm Văn Ngươn/Minh Chính Trưởng ban Binh vận,
Nguyễn Văn Đôi (pháp danh Thích Đạt Minh, trụ trì chùa
Lớn xã Đại Phước), Nguyễn Đắc Cầu (linh mục nhà thờ
Phú Hội), Nguyễn Minh Trí (đại diện giới học sinh). Đại hội
thông qua Lời kêu gọi toàn thể đồng bào ở Nhơn Trạch vùng
lên liên tục phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch,
giành chính quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người,
sức của phục vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp chống
giặc của quê hương.
Trước các cuộc rải chất độc hóa học của địch, nhân dân
xã Phú Hội cùng phối hợp với các xã khác trong huyện tiến
hành cuộc biểu tình với quy mô lớn. Sáng ngày 20-6-1962,
đồng bào các xã ở Nhơn Trạch, Long Thành hưởng ứng phát
động của Huyện ủy, đoàn kết đấu tranh với chính quyền
địch tại quận lỵ Phú Thạnh. Mặc dù chính quyền địch điều
lính ngăn chặn nhưng nhân dân các xã Phú Hữu, Đại Phước,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long Tân và Phú Hội vượt qua.
Trên đường đi, nhân dân mang băng rôn, hô khẩu hiệu “Rải
chất độc hóa học là phá hoa màu của dân, là giết dân”,
“Phải bồi thường tính mạng tài sản cho dân”,“Phải thống
nhất đất nước”. Bọn cảnh sát mật vội báo về quận. Má Tám
Ứng đại diện đoàn biểu tình đấu tranh với lính: “Chúng tôi
cày cấy trồng trọt, các ông rải chất độc làm cho chết hết
lúa, hoa màu, như vậy là các ông giết dân rồi. Chúng tôi
lên hỏi quận trưởng xem lời tuyên bố của ông ta như thế
nào, khi ông về làm quận trưởng ở đây nào là thực hiện dân
159

16.10 Page 160

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
sinh, dân chủ, nào là hạnh phúc, ấm no vậy rải chất độc
có đúng với lời ông ta không?”. Đồng bào các xã Phú Hội,
Long Tân đang trà trộn trong phiên chợ Phú Thạnh gia nhập
đoàn biểu tình. Trước sức mạnh, đoàn kết của đoàn biểu
tình, bọn lính tháo lui và báo về quận. Thấy đoàn biểu tình
đến quận lỵ, bọn lính và nhân viên, bảo vệ chạy trốn. Đồng
bào hô lớn: “Yêu cầu quận trưởng ra nói chuyện”. Lúc đầu
quận trưởng Nhơn Trạch là Trương Bảo Thiện lánh mặt, cho
Võ Văn Loài (Chánh văn phòng) ra tiếp. Đồng bào không
chấp nhận, tiếp tục đấu tranh và cảnh báo sẽ ném đá nếu yêu
cầu không được thực hiện. Tình hình căng thẳng buộc quận
trưởng Nhơn Trạch phải ra tiếp dân. Trước lý lẽ đanh thép
của người dân, quận trưởng Nhơn Trạch chối quanh, cho
rằng cấp tỉnh thực hiện chứ ở quận không có quyết định, hứa
sẽ đưa vấn đề lên tỉnh để giải quyết đền bù tài sản, không rải
chất độc hóa học. Đồng bào đưa 3 bản kiến nghị với hàng
ngàn chữ ký tố cáo tội ác của địch. Phấn khởi trước thắng
lợi của cuộc biểu tình, ngay đêm hôm đó đồng bào các xã
ở Nhơn Trạch nổi dậy phá hủy hàng ngàn mét giao thông
hào, rào kẽm gai ở các ấp chiến lược, phát loa kêu gọi binh
lính, bọn dân vệ về với cách mạng. Nhiều trận đánh của lực
lượng vũ trang cách mạng khiến địch và những tên tay sai
ác ôn phải đền tội trên toàn huyện Nhơn Trạch. Khi có tin
từ cơ sở nội ứng báo việc tên Đ. gây nhiều nợ máu với nhân
dân địa phương về Phú Hội, 5 giờ chiều ngày mùng 08-12-
1962, các đồng chí Mười Thọ, Mười Nông, Hai Cảm phục
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
kích bắt y tại khu Nhà Mồ rồi tuyên án, xử lý. Ngoài ra, tên
Đ. ở ấp Phú Mỹ 1, làm tay sai cho địch bị lực lượng cách
mạng tiêu diệt.
Đầu năm 1963, trên địa bàn Nhơn Trạch, địch tăng
cường hai tiểu đoàn lính bảo an, thực hiện ném bom, bắn
pháo, càn quét, đưa bọn bình định về củng cố ấp chiến lược.
Địch thực hiện bình định tại chỗ những vùng đã chiếm đóng,
đồng thời tấn công vào địa bàn xuất quân của Việt Cộng.
Địa bàn Phú Hội và các xã ven lộ 17, 19 bị địch “chà xát, tát
dân”, bắn phá liên tục một cách thô bạo để gom dân. Nơi ở
cũ của người dân bị bắn phá liên tục.
Tháng 3-1963, Trung ương Cục miền Nam và Khu ủy
miền Đông quyết định sáp nhập Biên Hòa - Bà Rịa lấy tên
là tỉnh Bà Biên. Sau khi sáp nhập, tỉnh Bà Biên điều cán bộ
về các huyện để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Khoảng cuối
tháng 7-1963, đồng chí Nguyễn Văn Thông họp trên tỉnh
về và phổ biến tình hình cho Nhơn Trạch. Theo nhận định
của trên, địch có thể tăng cường lực lượng và mở chiến dịch
đánh vào vùng căn cứ của cách mạng, đặc biệt khu Lòng
Chảo. Nhằm làm giảm mức độ tấn công của địch vào căn
cứ, Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương phá giao thông trên
tỉnh lộ 19 làm khó khăn cho địch triển khai các loại xe quân
sự theo hướng này. Giữa tháng 8-1963, địch tổ chức nhiều
mũi tấn công với quy mô lớn để đánh phá cách mạng Nhơn
Trạch, tập trung khu Lòng Chảo. Từ hướng Thủ Đức, địch
dùng xe lội nước và xà lan vượt sông Long Điền tràn vào
161

17.2 Page 162

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
ấp An Định, cướp thuyền của dân rồi tràn về phía Gò Me,
Xóm Hố. Nhiều cánh quân địch càn quy mô vào khu vực
Lòng Chảo và Rừng Sác, Bàu Bông, Bà Trường, Đồng Lớn.
Quân dân Nhơn Trạch chống trả quyết liệt khiến địch bị tổn
thất và phải rút quân. Sau thắng lợi chống càn, lực lượng vũ
trang huyện phối hợp với du kích xã tấn công nhiều bót lính.
Đêm ngày 16-10-1963, trong một đêm 5 đồn của địch ở Phú
Hội, Phước Thọ, Phước Khánh, bốt Ông Kèo, bốt Phước Lý
bị cách mạng tấn công.
Từ khi thực hiện Quốc sách ấp chiến lược, chính quyền
Sài Gòn đứng trước làn sóng đấu tranh mãnh liệt của nhân
dân miền Nam. Trong nội bộ chính quyền địch đã xảy ra
lục đục nội bộ. Đêm ngày 1 rạng sáng ngày 2-11-1963, một
nhóm tướng lĩnh của quân đội thực hiện cuộc đảo chính lật
đổ chế độ Ngô Đình Diệm1. Ông Ngô Đình Diệm (giữ chức
Tổng thống), Ngô Đình Nhu (cố vấn cấp cao) bị thủ tiêu
khiến chính quyền địch ở các nơi hoang mang. Tại Nhơn
Trạch, chính quyền địch và quân lính ở các địa bàn co cụm
và chờ tình hình tiếp theo của nhóm đảo chính. Sau đó,
nhóm đảo chính thành lập Hội đồng Quân sự ở miền Nam.
Tại quận Nhơn Trạch, địch đưa Lê Thiện Phước thay cho
Trương Bảo Thiện.
1  Ngày 1-11-1963, một số tướng lĩnh trong quân đội của chính quyền Sài
Gòn sau thời gian chuẩn bị, tiến hành đảo chính. Không thể cứu vãn tình
hình, Tổng thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu rời Dinh Gia
Long bằng hầm ngầm thoát ra ngoài, đến khu vực Chợ Lớn. Nhóm đảo
chính đã thủ tiêu Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu ngày 2-11-1963.
162

17.3 Page 163

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Lợi dụng lúc địch thay đổi nhân sự chính quyền, nội
bộ khủng hoảng, Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong
trào “Tranh thủ thời cơ tấn công địch giải phóng xã”. Theo
tỉnh lộ 17, từ Phước Thiền đến bến phà Cát Lái, địch rút đi
2 đồn, 3 chốt quân sự, lực lượng địch ở 11 ấp chiến lược
không dám hoạt động. Người dân làm công tác binh vận
tuyên truyền cho một số tề ấp ở địa phương không làm khó
gia đình có người thân tham gia kháng chiến. Đồng thời,
cũng cảnh báo cho tề ấp ở địa phương biết ngưng việc đàn
áp, bắt bớ người dân, nếu không sẽ chịu sự trừng trị của
cách mạng như những tên ác ôn khác.
Các hoạt động binh vận, tấn công địch ở xã Long Tân,
giáp ranh với Phú Hội giành được nhiều thắng lợi: 15 dân
vệ làm nội ứng tạo thuận lợi cho du kích, bộ đội huyện tấn
công, diệt 8 tên ngoan cố, gọi hàng 19 tên và thu 35 súng
các loại. Thanh niên Phú Hội tiếp tục thoát ly kháng chiến,
tham gia vào các nhiệm vụ trên chiến trường của Biên Hòa.
Bà Đặng Thị Tứ1 động viên con gái tham gia cách mạng.
Em Nguyễn Thị Huyền Ngân đi học ở quận lỵ Long Thành
đã được một số cán bộ xã như đồng chí Hai Muôn móc nối,
giáo dục, vận động thoát ly vào căn cứ, sau làm y tá Trường
1  Bà Đặng Thị Tứ (1903 - 1987) được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1994, có 3 người con là liệt sĩ, 1 người hy sinh trong kháng
chiến chống Pháp và 2 người hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Đồng
chí Nguyễn Thị Huyền Trân là con gái thứ 10 trong gia đình, hy sinh năm
1967.
163

17.4 Page 164

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Đảng tỉnh Bà - Biên. Anh Phan Văn Lợi1 thoát ly gia đình,
vào căn cứ và học tập, được phân công làm y tá phục vụ
quân y viện Nhơn Trạch. Trong cuộc chiến gay go chống
phá địch bình định, xây dựng ấp chiến lược, quân dân Phú
Hội gánh chịu những hy sinh. Một số du kích địa phương,
bộ đội hoạt động trên chiến trường bị địch càn, phục kích.
Đồng chí Nguyễn Văn Huân2 (tên ở nhà Nguyễn Văn Rít)
theo vận động của cơ sở cách mạng, thoát ly kháng chiến,
hoạt động trong cứ và trên địa bàn xã. Anh hy sinh trong
một trận đánh địch càn ở bìa rừng xã Phú Hội. Đồng chí Lê
Văn Thanh3 - du kích xã trên đường công tác bị địch phục
kích bắn chết.
Trước tình hình chuyển biến của chiến trường và thực
hiện sự chỉ đạo của Miền; tỉnh Bà Biên lại được tách ra làm
2 tỉnh: Biên Hòa - Bà Rịa. Tỉnh ủy Biên Hòa đuợc dời về căn
cứ đóng tại ngọn Suối Cả thuộc huyện Long Thành. Huyện
ủy Nhơn Trạch chuyển một bộ phận từ khu Bàu Bông thuộc
xã Phước An về Xóm Hố thuộc xã Phú Hội. Huyện ủy phát
động phong trào thi đua đóng góp sức người sức của cho
tiền tuyến. Hưởng ứng phong trào của huyện đề ra, hàng
1  Con của bà Huỳnh Thị Hý (? - 1960), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 1994, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Anh Phan Văn Lợi hy
sinh năm 1973.
2  Đồng chí Nguyễn Văn Huân là con của bà Lê Thị Đối (1917 - 2018),
được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994, có 4 con là liệt sĩ.
3  Con của bà Nguyễn Thị Ba (1910 - 1978), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 4 con là liệt sĩ.
164

17.5 Page 165

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
trăm thanh niên xung phong lên đường làm nghĩa vụ. Nhiều
xã đóng góp lương thực thực phẩm vượt chỉ tiêu đề ra. Chi
bộ, lực lượng du kích xã Phú Hội phát triển mạnh.
Trong một báo cáo cho biết, trong năm 1963, quân
Giải phóng và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895
Ấp chiến lược trong số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã bị
phá đi phá lại 5.950 lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền
làm chủ ở 12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn, ấp toàn
miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân trong tổng số 14 triệu dân
toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha
ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên miền
Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng nghìn ấp chiến
lược đã biến thành làng chiến đấu, hệ thống Ấp chiến lược
bị sụp đổ đến 4/51. Trong thắng lợi chung của cách mạng
miền Nam đánh phá chiến lược của chính quyền Sài Gòn, có
sự đóng góp của quân dân xã Phú Hội huyện Nhơn Trạch.
Trong năm 1964, Đại đội 2402 của tỉnh và Tiểu đoàn
800 của Quân khu miền Đông chuyển về đứng chân tại
1  Hồ Khang (2011), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam -
biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì độc lập, tự do và thống
nhất Tổ quốc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (nguồn http://tapchiqptd.vn/,
truy cập ngày 21/2/2022).
2  Tiền thân của Đại đội 240 là Đại đội 380 của tỉnh Thủ Biên. Ban đầu
có 40 cán bộ, chiến sĩ. Đồng chí Nguyễn Văn Thanh (Tư Ù) làm Đại đội
trưởng, Nguyễn Văn Chiến (Năm Chiến) làm Đại đội phó, Nguyễn Văn
Bé (Tư Bé) làm Chính trị viên. Sau này, đồng chí Nguyễn Văn Chiến làm
Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Lâm (Mười Lâm), Tấn Ba làm Đại
đội phó.
165

17.6 Page 166

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
vùng Nhơn Trạch - Long Thành với mục đích hỗ trợ cho địa
phương bao vây tấn công địch. Nhiều trận tấn công của đơn
vị 240 phối hợp với lực lượng du kích các xã đánh địch, mở
màn và mở các lộ, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở
Nhơn Trạch phát triển.
Lúc bấy giờ, tỉnh thành lập Hội đồng cung cấp lương
thực tỉnh Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn Thông làm chủ
tịch, Huỳnh Văn Đậm (Hai Đậm) làm Phó Chủ tịch kiêm
Trưởng Tiểu ban dân công, Mười Cơ làm Trưởng Tiểu ban
lương thực, Lê Kim (Sáu Kim) làm ủy viên... Thực hiện chủ
trương của Hội đồng cung cấp tỉnh cung ứng lương thực
phục vụ bộ đội chủ lực đánh địch, mở cửa khẩu vùng căn cứ,
huyện Nhơn Trạch thành lập Hội đồng cung cấp lương thực
do đồng chí Nguyễn Văn Xuân làm chủ tịch. Trong sự kìm
kẹp của địch, việc ra vào các ấp chiến lược bị tra xét gắt gao
nhưng cơ sở cách mạng vẫn tìm nhiều cách tiếp tế, chuyển
hàng ra căn cứ. Đội dân quân du kích xã Phú Hội làm nòng
cốt cho phong trào xây dựng ụ chiến đấu tại xã, phát triển
thành địa đạo để bao vây cô lập địch trong đồn, bót. Đầu
tiên, đội xây dựng ụ chiến đấu ở bìa rừng, sau đó phát triển
rộng ra giáp xã Long Tân đánh diệt bọn bảo an đi càn quét
phía ngoài có kết quả.
Vào tháng 9-1964, xảy ra một sự kiện lớn đối với nhân
dân Nhơn Trạch, đó là chính quyền địch thực hiện cuộc
thảm sát dã man vào người dân tại vàm sông Giồng Sắn
166

17.7 Page 167

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
(nay thuộc xã Phú Đông). Khu vực ngã ba Giồng Sắn là một
đầu mối giao thông đường thủy giữa sông Ông Kèo, Ông
Mai và Thị Vải (còn có tên gọi là Vàm Xoắn). Địa điểm
này tập trung nhiều ghe xuồng của người dân địa phương và
các vùng Long Thành, Bình Khánh, Nhà Bè, ngư dân tỉnh
Bến Tre, Long An để trao đổi hàng hoá. Trong chiến dịch
bình định của chính quyền Sài Gòn những vùng bao quanh
Sài Gòn, quân đội đã bắn phá dữ dội các địa bàn ven sông
giáp với vùng Nhơn Trạch của tỉnh Biên Hòa để triệt hạ các
vùng được xem là có thể cung cấp hậu cần cho lực lượng
cách mạng. Địch nghi ngờ địa điểm ngã ba sông Giồng
Sắn là nơi lực lượng cách mạng tập trung những hoạt động
tuyên truyền, thu mua lương thực, thực phẩm... cho vùng
căn cứ tại khu Lòng Chảo, Rừng Sác nên chọn tấn công.
Từ khoảng 4 giờ chiều ngày 27-9-1964, người dân các ở
Giồng Ông Đông, Phú Hữu, Đại Phước, Vĩnh Thanh, Phước
Khánh đi kiếm củi, giăng câu tập trung về bến ngã ba sông
Giồng Sắn1 vào buổi chiều như thường lệ thì bị địch tấn
công. Nhiều máy bay địch xuất hiện thả bom xuống chỗ hơn
200 ghe xuồng neo đậu, pháo từ Nhà Bè bắn qua cấp tập.
Tổng cộng có 536 thường dân chết và rất nhiều người khác
bị thương. Cuộc giết hại dã man nhiều người dân vô tội tại
Giồng Sắn ở Nhơn Trạch một số báo chí ở Sài Gòn và trên
1  Địa điểm Ngã ba Giồng Sắn được xếp hạng di tích cấp tỉnh theo quyết
định số 5160/QĐ-CT.UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, ngày
22/10/2004.
167

17.8 Page 168

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thế giới yêu chuộng hòa bình đưa tin, lên án. Các cơ quan
thông tấn của cách mạng đưa tin tố cáo tội ác của quân đội
Sài Gòn. Huyện ủy Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu
tình với hơn 1.000 người tham gia, phản đối hành động sát
hại dân lành của chính quyền Sài Gòn tại Nhơn Trạch, Biên
Hòa và Sài Gòn. Ngày 28-9-1964, nhân dân tổ chức tưởng
niệm các nạn nhân tại bến Giồng Sắn, sau đó chia thành các
đoàn tiến đến quận lỵ Nhơn Trạch, về tỉnh Biên Hòa và lên
Sài Gòn. Nhân dân Phú Hội hưởng ứng và ủng hộ người dân
đấu tranh với chính quyền địch tại quận lỵ tại xã Phú Thạnh,
hô khẩu hiệu: “Phản đối hành động giết hại dân lành hàng
loạt của Mỹ - ngụy”... khiến chính quyền địch thối động,
viện cớ theo kiểu “ném bom nhầm” và hứa xem xét những
yêu cầu của đồng bào. Sau này, chính quyền địch tìm mọi
cách chối tội và làm giảm những số lượng nạn nhân, mức độ
thiệt hại trong vụ thảm sát, và tìm cách đẩy trách nhiệm, kỷ
luật đối với sĩ quan cấp thấp ở Yếu khu Thành Tuy Hạ, thực
hiện đền bù cho các nạn nhân.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Biên Hòa, Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt phát động nông dân
nhằm nâng cao tinh thần cách mạng, cùng với lực lượng vũ
trang chủ lực trong tấn công, làm phá sản chiến lược chiến
tranh đặc biệt của Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam
Việt Nam. Huyện ủy Nhơn Trạch nêu cao quyết tâm toàn
đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong huyện kiên trì liên tục
đánh phá “quốc sách” ấp chiến lược, chương trình “Bình
168

17.9 Page 169

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
định nông thôn”, các âm mưu “Dồn dân bắt lính”, vơ vét sức
người sức của địch rộng khắp.
Trên chiến trường Biên Hòa, phối hợp với các kế hoạch
tấn công địch và thể hiện quyết tâm trả thù cho dân lành
Giồng Sắn bị thảm sát, lực lượng cách mạng tổ chức phát
động đánh địch. Tại xã Long Tân, du kích phục kích diệt
tên Thôi, tên Tư Tẹo ác ôn có nhiều nợ máu với người dân
địa phương. Vào ngày 31-10-1964, lực lượng cách mạng
tấn công vào sân bay Biên Hòa1. Sau thời gian điều nghiên
và nắm thông tin từ cơ sở nội ứng, Đoàn Pháo binh Miền
phối hợp với lực lượng cách mạng Biên Hòa nã pháo tập
kích. Đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã), Nguyễn Văn
Bứa (Hai Hồng Lâm) chỉ huy trận đánh. Địch tổn thất nặng
nề với 59 máy bay bị phá hủy (trong đó có 21 máy bay B57,
11 máy bay AD6, 1 máy bay do thám U2), 2 kho đạn lớn,
1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn trại lính bị phá huỷ, 253
tên địch bị thương và chết. Trận đánh sân bay Biên Hòa làm
rúng động giới quân sự Mỹ và chính quyền tay sai, chúng
xem đây là một “thảm họa” đáng xấu hổ trước sức tấn công
của quân cách mạng. Nhắc đến thắng lợi của trận đánh này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh Chiến sĩ) đã ca ngợi trên
1  Sân bay Biên Hòa là sân bay quân sự của chính quyền Sài Gòn, rộng
khoảng 49km2 với 2 đường băng dài 3.600m, 1.000m. Hệ thống phòng thủ
sân bay nhiều tầng lớp rào, canh gác cẩn mật và có hệ thống ra đa, chỉ
huy liên lạc hiện đại. Bên trong sân bay có 6 khu vực rộng chứa từ 170
đến 190 máy bay và khu làm việc của 500 sĩ quan, phi công, nhân viên kỹ
thuật và binh lính Mỹ.
169

17.10 Page 170

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
báo Nhân Dân (số 3878, ngày 12-11-1964): “Uy danh lừng
lẫy khắp năm châu, Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu, Thành
đồng trống thắng lay Lầu trắng. Điện Biên, Mỹ chẳng phải
chờ lâu”. Báo Nhân dân của cách mạng đã đăng tải: Mười
ngày trả thù cho đồng bào Phú Hữu (Biên Hòa), tức sự kiện
Giồng Sắn, trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách
mạng đã tổ chức 30 trận, tiến công và buộc địch rút 25 đồn,
diệt trên 750 tên địch, thu 184 súng.
Cuối năm 1964, Huyện ủy Nhơn Trạch đóng tại Hang
Nai để chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương. Khu vực
này có giao thông hào, có đường địa đạo. Từ trong căn cứ
có thể theo đường địa đạo vượt ra ngoài rừng Giồng, chung
quanh căn cứ có hàng rào chiến đấu và hầm chông.
Tháng 11-1964, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết
định mở chiến dịch Đông Xuân 1964 -1965 tấn công vào
khu vực Bình Giã - Thạnh Đức, cách Sài Gòn về phía Đông
khoảng 70km (sau gọi là chiến dịch Bình Giã). Mục đích
của chiến dịch diệt bộ phận sinh lực địch, phá kế hoạch bình
định trọng điểm của chính quyền Sài Gòn tại đây, hỗ trợ
phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh
chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ. Địa bàn Nhơn
Trạch - Long Thành được chọn là hướng thứ yếu với nhiệm
vụ đóng góp lương thực, thực phẩm, đưa người tham gia
chiến dịch, đánh vào kho bom Thành Tuy Hạ, thu hút lực
lượng địch và chặn đánh địch trên quốc lộ 15. Nhơn Trạch
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
phát động phong trào phục vụ chiến dịch Bình Giã với việc
đóng góp lương thực và phát động thanh niên tham gia du
kích, tòng quân. Chiến dịch qua hai đợt tấn công của Quân
giải phóng đã đem lại thắng lợi lớn, gây cho địch tổn thất
nặng nề cả về quân số và trang thiết bị quân sự, đánh bại
chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa vận” của địch trên chiến
trường. Quân chủ lực của Miền phối hợp với bộ đội chủ lực
của Khu miền Đông và lực lượng vũ trang địa phương đánh
rã nhiều sắc lính của địch, phá tan ấp chiến lược kiểu mẫu1.
Thắng lợi chiến dịch Bình Giã cổ vũ lớn cho phong
trào đấu tranh của quân dân Nhơn Trạch, Long Thành.
Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong trào đẩy mạnh phá
và bao bó đồn bót của địch, tòng quân, đóng góp cho kháng
chiến. Trong đợt phát động này, xã Phú Hội mua công trái
nhiều nhất, với số tiền trên 1 triệu đồng, quy ra vàng gần
bằng 100 lượng. Trong một đêm, tại xã Phú Hội, Đại đội
240 cùng du kích bao vây phá đồn giặc ở cổng nhà thờ, diệt
gọn 1 trung đội bảo an, thu 35 súng các loại. Diệt đồn xong
bộ đội cùng du kích bao vây phá luôn 3 ấp chiến lược, bắt
sống toàn bộ lính dân vệ. Khu vực Xóm Hố (xã Phú Hội,
Long Tân), Bến Cam (Phước Thiền), phong trào cách mạng
phát triển mạnh, lực lượng cách mạng làm chủ địa bàn. Các
địa bàn Xóm Hố, Đất Mới và Phú Mỹ được xem là vùng giải
phóng, lính địch không dám lùng sục vào như trước. Khi
1  Chiến dịch chia làm 2 đợt: đợt 1 từ ngày 2 đến ngày 17-12-1964 và đợt
2 từ ngày 27-12 đến ngày 3-1-1965.
171

18.2 Page 172

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
nào, chính quyền địch tăng cường quân lính từ trên xuống
càn quét thì lực lượng bảo an dân vệ trên địa bàn Phú Hội
mới dám đi cùng, sau đó co lại, cố thủ trong các đồn bốt.
Những bản ghi gia đình liên gia, ghi công ơn tổng thống Sài
Gòn Ngô Đình Diệm, cờ của Việt Nam Cộng hòa đều bị lực
lượng cách mạng tịch thu, đem phá hủy.
Khi chính quyền Sài Gòn thực hiện bình định miền
Nam với việc xây dựng ấp chiến lược để kiểm soát người
dân, kiềm tỏa phong trào cách mạng, lực lượng quân dân
Nhơn Trạch bằng ba mũi giáp công đã làm phá sản việc xây
dựng ấp chiến lược trên địa bàn; góp phần đánh bại hoàn
toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam
Việt Nam. Trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn,
từ cuối tháng 3-1965 Mỹ đổ hàng vạn quân viễn chinh và
chư hầu vào miền Nam, tiến hành chiến lược “Chiến tranh
cục bộ”. Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức học tập cho nhân
dân các vùng trọng điểm: Phú Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền
tiếp tục góp phần tấn công địch, chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng
bước vào giai đoạn ác liệt nhất; trực tiếp đối đầu với lính Mỹ
và liên minh trong chiến tranh cục bộ của địch.
3. Đấu tranh mở vùng, tiến công và nổi dậy xuân
Mậu Thân (1965 - 1968)
Trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng
đã giành được những thắng lợi quan trọng, làm cho Mỹ và
chính quyền Sài Gòn tổn thất và lâm vào tình thế khó khăn.
172

18.3 Page 173

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Đế quốc Mỹ thực hiện leo thang chiến tranh, thực hiện chiến
lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và lực lượng liên
minh vào miền Nam Việt Nam, trực tiếp tác chiến nhằm
tiêu diệt lực lượng cách mạng với kế hoạch trong vòng
từ 25 đến 30 tháng1. Trung ương Cục miền Nam đã đánh
giá tình hình và chỉ đạo cho cách mạng miền Nam tiếp tục
giữ thế tấn công khi Mỹ đưa lực lượng quân lính tinh nhuệ
tham chiến.
Ở Biên Hòa, đầu tháng 5-1965, lữ đoàn dù Mỹ mang
phiên hiệu 1732 đến Biên Hòa. Bộ phận chỉ huy địch đặt ở
Tổng kho Long Bình và khu căn cứ Nước Trong. Đầu tháng
4-1965, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức cho cán bộ và nhân
dân học tập “nghị quyết đánh Mỹ” của Trung ương Đảng.
Trung tuần tháng 4, cán bộ huyện được phân công xuống
các xã triển khai tinh thần nghị quyết, đồng thời chỉ đạo phải
bổ sung thêm quân số cho lực lượng du kích ở các xã, tăng
cường huấn luyện quân sự, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh đầy
khó khăn trong tình hình mới.
1  Ngày 6-4-1965, Mỹ công bố “Hành động An ninh quốc gia” số 328,
thông báo Tổng thống Mỹ Johnson quyết định thực hiện chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”. Thực hiện kế hoạch “tìm và diệt” lực lượng cách mạng
theo ba giai đoạn từ năm 1965 đến cuối năm 1967.
2  Nghị quyết ngày 1-4-1965 của tổng thống Mỹ đưa một bộ phận quân
chiến đấu trên bộ vào miền Nam. Tháng 5-1965, Lữ đoàn dù 173 vào Biên
Hòa - đồng thời địch đổ bộ toàn bộ sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) vào
miền Đông Nam Bộ, đóng căn cứ Dĩ An, phía Bắc Sài Gòn. Quyết định
ngày 17-7-1965 của tổng thống Mỹ triển khai ồ ạt 14 tiểu đoàn quân chiến
đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam.
173

18.4 Page 174

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Được Mỹ đổ quân hỗ trợ, chính quyền ngụy đề ra kế
hoạch “Bình định cấp tốc”. Nhơn Trạch là một trong ba địa
bàn trọng điểm mà Tiểu khu Biên Hòa chọn thực hiện kế
hoạch này. Binh lính ở Nhơn Trạch đắc ý và hy vọng sẽ có
những chỗ dựa vững chắc để đánh phá lực lượng cách mạng.
Chính quyền địch tiến hành phân loại xã ấp theo A, B,C theo
thực tế kiểm soát của chúng (loại A: địa bàn địch có thể làm
chủ cả ngày lẫn đêm, loại B: địa bàn địch chỉ làm chủ được
ban ngày và một số ấp ban đêm, loại C: làm chủ được ban
ngày). Xã Phú Hội cùng với các xã Long Tân, Tam Phước,
Phước Nguyên, An Lợi, Phước Thọ địch xếp loại C, chỉ làm
chủ được ban ngày, đêm không dám xuống ấp.
Địch điều về địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành 7 đoàn
công tác “Đoàn cán bộ xây dựng nông thôn”. Đây là thủ
đoạn của chính quyền địch, sử dụng lực lượng mang danh
nghĩa xây dựng nông thôn nhưng thực tế bám sát các sinh
hoạt các vùng dân cư theo dõi, thu thập tin tức, kiểm tra dân
số thường xuyên. Qua các hoạt động bám sát địa bàn, địch
mong muốn sẽ phát hiện cơ sở cách mạng, cán bộ, đảng
viên hoạt động trong quần chúng hoặc sự liên lạc giữa nhân
dân và căn cứ. Đồng thời, qua những sinh hoạt chung, địch
tuyên truyền gây sự chia rẽ trong nhân dân, ngăn chặn sự
đoàn kết ủng hộ đấu tranh của người dân với chính quyền.
Địa bàn xã Phú Hội, Long Tân được chính quyền địch chọn
là vùng trọng điểm để đánh bật lực lượng cách mạng, chia
cắt mối liên hệ giữa nhân dân và căn cứ Lòng Chảo.
174

18.5 Page 175

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Kết hợp 2 lực lượng cách mạng huyện, đội dân quân
du kích xã Phú Hội và nhân dân phát động phong trào phá
ấp chiến lược toàn xã, giải phóng hoàn toàn xã Phú Hội, tiến
hành xây dựng làng xã chiến đấu. Ở xã Phú Hội, các giao
thông hào, ô ụ chiến đấu trong các lõm căn cứ được xây
dựng, chuẩn bị chu đáo. Nhân dân tham gia phá ấp chiến
lược bằng nhiều cách. Ban ngày địch bắt dân làm sửa lại thì
người dân làm ẩu và xác định để tối phá lại. Khi địch truy
hỏi, bắt nạt, người dân trả lời: Lính các ông canh giữ kiểu
gì, kìm kẹp dân quá nên mấy cách mạng về phá ấp cho dân.
Mỗi đợt phá ấp chiến lược thành công đã tạo điều kiện cho
một số thanh niên trong ấp thoát ly vào cứ tham gia kháng
chiến. Mỗi khi chính quyền địch bắn phá vào nhà dân, được
sự vận động của tổ chức Đảng, nhân dân hưởng ứng tích cực
đấu tranh chính trị. Tháng 5-1965, địch nghi ngờ lực lượng
cách mạng tổ chức tuyên truyền tại ấp Phú Mỹ 2 nên gọi
cho đơn vị pháo từ Long Thành bắn vào. Đạn pháo của địch
bắn trúng nhà ông Đỗ Văn Hựu, nhà ông Hai Tuấn làm một
số người chết. Chi bộ xã Phú Hội vận động người dân đấu
tranh. Những gia đình có người chết trong đợt pháo kích của
địch cùng với người dân địa phương tham gia; trong đó có
gia đình binh sĩ khiêng xác ba nạn nhân lên đồn và chợ Phú
Hội tổ chức tang lễ, tố cáo tội ác của địch.
Lực lượng quân Mỹ tiến hành những cuộc tấn công
với quy mô lớn vào lực lượng cách mạng trên địa bàn Long
Thành, Nhơn Trạch. Đối phó với hành động của địch, Huyện
175

18.6 Page 176

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
ủy Nhơn Trạch chỉ đạo xây dựng thế chiến đấu phải đứng
vững trên địa bàn, tấn công địch liên tục bằng ba mũi giáp
công. Quân dân Nhơn Trạch kiên cường bám trụ, đánh chặn
khiến địch bị tổn thất nặng, bảo vệ được căn cứ Lòng Chảo.
Phong trào cách mạng huyện Nhơn Trạch phát triển mạnh,
lực lượng vũ trang của huyện được trang bị gần 200 tay
súng. Du kích xã Phú Hội có 50 đồng chí với hệ thống trận
địa sẵn sàng đánh Mỹ càn quét.
Ngày 25-8-1965, binh lính Mỹ tấn công khu Lòng
Chảo. Từ 7 giờ sáng, pháo địch từ Bến Sắn, Phước Hòa
cấp tập vào xóm ấp gần khu đường ủi Phước Lai, Phú Hội,
Long Tân. Máy bay phản lực của địch đến cắt bom. Đơn
vị 245 cùng du kích 3 xã Phước Thọ, Phú Hội, Phước An
đánh chặn. Lính Mỹ chia làm hai ngã tiến theo tỉnh lộ 17 và
đường ủi Phước Lai đến bao vây tấn công nổng Giang Lò
thuộc Xóm Hố. Dựa vào đường địa đạo và vị trí trên cao,
các chiến sĩ dùng ĐH10 cho nổ ngăn chặn từ xa và bắn súng
vào đội hình địch từ phía dưới. Ba lần địch xông lên đều bị
đánh bật lại, nhiều lính địch bị chết, bị thương. Địch cho
pháo từ Bến Sắn, từ Thành Tuy Hạ bắn đến liên tục và máy
bay tiếp tục dội bom hỗ trợ. Được trang bị hỏa lực mạnh,
đến 2 giờ chiều, địch tập trung tấn công cả ba mặt, chủ yếu
từ lộ 17 lên có xe tăng yểm trợ đánh vào căn cứ. Trận đánh
càng gay go quyết liệt, bộ đội chiến sĩ gài mìn lối vào địa
đạo rồi rút về cánh đồng Cà Phê. Trận tấn công này địch
có 56 tên chết, nhiều người bị thương. Sáng ngày hôm sau,
176

18.7 Page 177

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
địch cho 6 máy bay đến ném bom xuống khu vực trận địa và
phá hoại hệ thống địa đạo, giao thông hào.
Phong trào diệt ác, phá ấp ở Nhơn Trạch, Long Thành
vẫn diễn ra sôi nổi1. Tại xã Phú Hội có xã trưởng, cảnh sát
và chỉ huy lính bảo an hống hách và lộng hành gây khó khăn
cho phong trào cách mạng. Thông qua cơ sở ngầm, chi bộ,
du kích xã phối hợp tổ chức tiêu diệt. Du kích Phú Hội phối
hợp với chiến sĩ Đại đội 240 lên kế hoạch tiêu diệt. Người
con gái của gia đình ông Nguyễn Văn Phần, bà Nguyễn Thị
Thành là cơ sở cảm tình, được vận động hỗ trợ. Nhân nhà tổ
chức lễ giỗ, gia đình mời những tên này đến dự. Tên cảnh
sát và chỉ huy lính bảo an đến dự trước, tên xã trưởng đến
sau. Khi nội ứng ra ám hiệu, các chiến sĩ Trung, Ẩn, Phước
mai phục từ đám cỏ ruộng sau nhà tiến vào bất ngờ tiêu diệt.
Tên xã trưởng trên đường đi đến đã may mắn thoát chết. Sau
đó, địch bắt ông Nguyễn Văn Phần và người con gái giam
giữ, tra khảo nhưng không khai thác được manh mối nên thả
ra. Trận đánh diệt ác giữa ban ngày tại Phú Hội làm những
tên tay sai ác ôn khác ở địa phương hoảng sợ. Trận diệt ác
ôn khác do du kích xã thực hiện qua thông tin theo dõi, nắm
bắt quy luật đi lại từ cơ sở cách mạng là ông Năm Ty, Năm
Chẩn tại chợ Phú Hội. Hai tên ác ôn gây nhiều tội ác với
người dân địa phương là Ch., C. bị tiêu diệt giữa ban ngày
1  Bộ đội huyện cùng du kích 5 xã Phước Nguyên, An Lợi, Tam An, Tam
Phước, Phước Tân tập kích, phá 2 ấp chiến lược ở Phước Nguyên, 3 ấp
tại An Lợi, 2 ấp ở Tam An, 1 ấp ở Tam Phước phá 1 ấp. Trong 1 đêm, lực
lượng cách mạng bắt sống 40 tên dân vệ, thu 32 súng, diệt 4 tên ác ôn.
177

18.8 Page 178

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
cùng 1 tên tề xã bị thương. Khi biết địch chưa phát hiện cách
đánh táo bạo này, đồng chí Lê Đức Thắng (Ba Thắng, Xã
đội trưởng) bố trí du kích tiếp tục diệt tên Ba M., Năm T.
tại chợ Phú Hội gây nên tiếng vang khiến lính địch lo sợ vì
cách mạng đột nhập tài tình. Lính địch từ đồn nghe tin cho
quân xuống truy tìm không ra được vì bị du kích ấp Phú Mỹ
nổ súng bao vây ngăn chặn.
Trong sự chống trả của địch, quân dân Phú Hội chịu
những tổn thất trên địa bàn. Chiến sĩ Nguyễn Văn Công1 -
phụ trách lực lượng xã đội Phú Hội, đồng thời là chiến sĩ của
Đại đội 240 của huyện hy sinh trong một trận đánh ác liệt
với địch. Khi giao tranh chấm dứt, vào buổi sáng, lính đem
xác anh về đồn, bà con trong xóm nhận ra và về báo cho gia
đình biết tin, đến nhận xác đem về chôn. Đồng chí Lê Văn
Bên2, du kích xã trong nhiệm vụ dán cờ, tuyên truyền lính
phục kích trúng thương, sau đó mang ra bắn chết vào ngày
3-10-1965. Lư Văn Chắc (Ba Vân) giữ nhiệm vụ Phó Bí thư
Huyện ủy Nhơn Trạch hy sinh trong một chuyến công tác3.
Bà Nguyễn Thị Thiệt4 là cơ sở trung kiên của cách mạng
1  Con của bà Lê Thị Đối (1917 - 2018), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 1994, có 04 con là liệt sĩ.
2  Con của bà Huỳnh Thị Cận (1905 - 1998), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 03 con là liệt sĩ.
3  Con của bà Lư Thị Thạnh (1912 - 1968), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 02 con là liệt sĩ.
4  Bà Nguyễn Thị Thiệt (1924 - 1965), được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1994, có 02 con là liệt sĩ. Mẹ của bà là Nguyễn Thị Thế (1889 -
1983) cũng được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994.
178

18.9 Page 179

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thời kháng chiến chống Pháp, gia đình nhiều người tham
gia trong thời kỳ chống Mỹ. Căn nhà của bà bị đạn pháo
bắn cháy nhiều lần và bản thân nhiều lần bị địch bắt, đánh
đập tra khảo. Song vì không đủ bằng cớ, bà lại được tha về,
bà tiếp tục hoạt động cách mạng. Là một cán bộ cách mạng
hoạt động hợp pháp, bà đã vượt qua rất nhiều khó khăn,
nắm bắt tin tức, tình hình của địch ở Phú Hội để báo về căn
cứ. Địch ruồng bố nhiều và bà Thiệt phải thoát ly vào căn
cứ. Trong một lần đột về ấp lấy thông tin, đạn pháo cấp tập
bắn vào làng và bà hy sinh trong căn nhà của mình. Đồng
chí Lan, cán bộ dân công tỉnh Biên Hòa cùng bà Thiệt về ấp
bị pháo địch bắn vào làng, hy sinh. Chi bộ ấp Phú Mỹ cùng
người dân khiêng xác lên đồn địch đấu tranh, yêu cầu chúng
tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị không được bắn pháo vào nhà
dân và điều tra, bồi thường nhân mạng, tài sản gây ra.
Bước sang năm 1966, Lữ đoàn 199 thủy quân lục chiến
Mỹ từ Phú Xuân (Nhà Bè) được điều về Nhơn Trạch, Long
Thành thay cho Lữ đoàn dù 173 phải chuyển đi chiến trường
khác. Địch bung ra chiếm đóng ở một số vị trí trên các trục
lộ, tổ chức càn quét. Sau những ngày tạm ngưng bắn trong
tết năm 1966, địch tổ chức tấn công quy mô lớn vào khu
căn cứ Lòng Chảo, Hang Nai. Hang Nai là căn cứ chủ yếu,
trung tâm chỉ đạo của cơ quan Huyện ủy Nhơn Trạch1. Đồng
1  Căn cứ này được thiết lập từ cuối năm 1964, ở đây có giao thông hào,
có đường địa đạo. Từ trong căn cứ có thể theo đường địa đạo vượt ra ngoài
rừng Giồng, chung quanh căn cứ có hàng rào chiến đấu và hầm chông.
179

18.10 Page 180

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thời, địch đã đổ quân hai lần xuống Vàm Đồng Môn, bao
vây xã Long Tân, Phú Hội, Phú Mỹ. Trên vùng Rừng Sác
địch đổ quân xuống xã Phước Khánh, rồi tràn sang tàn phá
khu Giồng Ông Đông. Cuộc chiến đấu ác liệt, giằng co giữa
hai bên đúng một tuần lễ. Một bộ phận lữ đoàn dù 199 của
Mỹ càn vào xã Phú Hội. Vận động theo địa đạo và dựa vào
ụ chiến đấu, đội dân quân du kích xã Phú Hội liên tục phản
công và tiến công địch suốt 2 ngày đêm, bẻ gãy nhiều cuộc
tiến công của địch. Dẫu bị tổn thất nhưng khu căn cứ cách
mạng vẫn được giữ vững. Về phía địch, có 167 tên xâm lược
Mỹ chết, nhiều tên bị thương, 6 trực thăng bị bắn rơi, 5 xe
tăng bị bốc cháy. Địch chỉ phá được một số ô ụ giao thông
hào ở phía bên ngoài và ở một số ấp xung quanh. Trước sức
tấn công của địch, chà đi xát lại nhiều lần khiến vùng căn
cứ gặp nhiều khó khăn. Một số cá nhân tham gia trong lực
lượng quân báo, y tế và du kích không chịu nổi gian khổ đã
ra hàng địch gây nên nhiều khó khăn cho phong trào. Một
số chiến sĩ, du kích hy sinh trên chiến trường Phú Hội: Trần
Ngọc Khởi1, Nguyễn Văn Văn2 hy sinh trong các đợt chống
càn, làm nhiệm vụ bị địch mật phục.
Từ Biên Hòa địch điều thêm về Nhơn Trạch, Long
Thành 3 tiểu đoàn và đưa về hàng trăm xe ủi, âm mưu ủi cắt
1  Con của bà Mã Thị Khương (1913 - 1962), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1997, có chồng và 2 con là liệt sĩ (xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch).
2  Con của bà Lê Thị Dứa (1917 - 1962), được truy tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
khu vực Đồng Ông Trúc, vùng ven lộ 17 và 19. Đầu tháng
3-1966, địch tập trung lực lượng xúc tát người dân Phú Hội
ra khỏi xã. Địch cho rằng: “Phú Hội là cơ sở của Việt Cộng,
lấy xã Phú Hội làm điểm, nếu hốt được 2.000 dân đi nơi
khác, hủy diệt vùng này, thì sẽ làm tiếp tục sang một số xã
khác”. Kể từ tuần đầu máy bay phát loa hăm dọa đồng bào
phải dời đi nơi khác để chúng ném bom, bắn pháo. Một tiểu
đoàn lính biệt động quân mang biệt hiệu “Mãnh Hổ” được
điều đến Phú Hội. Vì nón tên lính nào cũng có hình đầu hổ,
nên đồng bào đã gọi lính này là “Đầu cọp đã về”. Để hỗ trợ
cho việc xúc tát dân, địch đưa về gần 20 xe tăng, xe bọc thép
bao vây, càn quét trên địa bàn Phú Hội. Lúc đầu dân kiên
quyết không đi, giặc tràn vào đốt phá, dân bỏ chạy ra Vàm
Đồng Môn rồi lại kéo nhau về.
Sang tuần thứ hai, địch tăng cường bắn phá, khiến
người dân chịu không xiết đành phải đi. Đồng bào hỏi tên
trưởng đồn Phú Hội là đi đâu để sống thì tên này trả lời:
“Yêu cầu đồng bào phải ra khỏi xã, còn muốn đi đâu thì
đi”. Một số dân chạy về xã Long Tân, Phước Thiền, Phước
Thọ, một số khác chạy về khu đến Phước Lộc gần ngã ba
Cầu Xéo. Có đêm có khoảng 500 đồng bào sống chen chúc
trong một ngôi đền nhỏ. Trước tình hình đó, Huyện ủy liền
chỉ đạo cho đồng bào làm đơn đấu tranh đòi về làng cũ để
sản xuất, bảo vệ tài sản. Gần 1.000 đồng bào kéo nhau về
huyện đấu tranh liên tục với những lá đơn có tới 2.000 chữ
ký. Một đoàn người dân Phú Hội do các ông Lư Văn Thiên,
181

19.2 Page 182

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Năm Tố, Bảy Chu, Quánh Văn Nhiêu kéo về Biên Hòa đấu
tranh. Trên đường đi, đoàn người tranh thủ lấy chữ ký ủng
hộ của đồng bào. Khi đoàn biểu tình đến Biên Hòa, tỉnh
trưởng Trần Văn Hai đã xé đơn đập bàn và kết luận: “Phú
Hội là xã chứa Việt Cộng nên tất cả phải đi để chính phủ
cho bom hủy diệt” rồi điều lính giải tán đoàn biểu tình. Kiên
quyết đấu tranh, đoàn biểu tình lại làm đơn lên chính quyền
cấp trên của địch ở Sài Gòn. Bọn lính không cho vào. Đoàn
biểu tình vào Viện Hóa đạo tranh thủ nhà sư Thích Tâm
Châu can thiệp. Đoàn biểu tình gặp ông Nguyễn Cao Kỳ là
một trong những lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn. Ông
Lư Văn Thiên trình bày: “Hiện giờ 2.000 dân xã tôi sống rất
khổ, phải bỏ nhà, bỏ vườn ruộng chạy đi các nơi. Lính của
các ông tràn vào cướp phá, kẻ gian lợi dụng cướp theo, nhân
dân rất căm giận các ông, nếu không cho về, dân chúng tôi
sẽ kéo hết vào rừng theo Cộng sản”. Trước tình hình đấu
tranh kiên quyết của nhân dân Phú Hội, tướng chính quyền
Sài Gòn cử đoàn điều tra hỏa tốc tại Phú Hội. Chứng kiến
cảnh nhà cửa, tài sản của người dân bị phá hủy tại Phú Hội,
đoàn điều tra báo cáo gấp cho ông Nguyễn Cao Kỳ. Đoàn
biểu tình được chính quyền Sài Gòn giải thích: “Phủ tổng
thống không có lệnh đuổi dân, trường hợp này là ở dưới các
ông ấy làm sai, đề nghị bà con trở về vận động trở lại xã, tôi
sẽ điện về tỉnh”. Ngay chiều hôm đó, ông Nguyễn Cao Kỳ
đáp máy bay xuống Biên Hòa, trao đổi với tỉnh trưởng Biên
Hòa, rồi điện cho quận trưởng Lê Quang Trọng. Ba ngày
182

19.3 Page 183

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
sau, quận trưởng Lê Quang Trọng cho trực thăng đi phát loa
kêu gọi đồng bào Phú Hội trở về, ai bị thiệt hại về tài sản
thì làm bản kê khai, chính phủ sẽ bồi thường. Âm mưu tát
dân của địch bị thất bại. Sau một tháng ly tán và đấu tranh,
người dân Phú Hội trở về quê sinh sống.
Không thực hiện được ý đồ tát dân, địch chuyển sang
đánh phá địa hình, cho máy bay rải chất độc hóa học. Lữ
đoàn 199 Thủy quân lục chiến Mỹ chuyển kế hoạch không
tổ chức càn lớn mà tập trung trực thăng từng, đổ quân tấn
công địa điểm khi nghi vấn có “Việt Cộng trú đóng”. Sự
đánh phá của địch làm cho công tác dự trữ hậu cần cách
mạng không duy trì ở vùng sâu mà chuyển gởi trong dân.
Ban Quân lương của huyện phải phân chia người phụ trách
từng vùng để thu và chuyển đến từng đơn vị. Huyện ủy
Nhơn Trạch chỉ đạo khi địch tập trung tổ chức những cuộc
càn lớn thì ta tạm tránh để bớt thương vong nhưng phải tìm
sơ hở của địch, nghiên cứu thật chắc chắn, tập trung đánh
phá vào những nơi giặc không chuẩn bị rồi nhanh chóng
phân tán. Lực lượng vũ trang cách mạng tiến hành đào hầm
và xây ụ chiến đấu. Đường hầm được đào cách mặt đất một
khoảng vừa tầm, trong lòng rộng để di chuyển và có những
ngách ẩn nấp, thoát đi. Du kích Phú Hội đào hầm dài và xây
ụ chiến đấu trên khu vực sau miễu Giang Lò. Ụ chiến đấu
nhô lên khỏi mặt đất, được ngụy trang bởi cỏ và cây rừng.
Ụ chiến đấu có 4 lỗ châu mai và khi chiến đấu có 4 chiến sĩ
trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Khi lính Mỹ, Thái Lan từ
183

19.4 Page 184

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đường nhựa càn lên, chúng khó phát hiện, lọt vào tầm ngắm
của các chiến sĩ, du kích. Vì vậy, khi lính địch tiến gần,
lực lượng cách mạng mới nổ súng, gây sát thương cao mà
chúng không kịp phát hiện. Khi tấn công chớp nhoáng, tùy
theo tình hình, lực lượng cách mạng bám trụ ngăn chặn mũi
càn của địch hoặc rút vào đường hào để bảo toàn lực lượng.
Trong một trận đánh, lính Mỹ phát hiện đường hầm và cho
lựu đạn xuống để phá hủy, tiêu diệt lực lượng cách mạng.
Tuy nhiên, các chiến sĩ, du kích rút nhanh vào các ngách
hầm nên không bị sức ép hay khói mà rút về trong vùng trú
đóng an toàn.
Phối hợp với các trận đánh Mỹ và quân lính địch,
Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo phải diệt ác ôn, tình báo, điệp
báo để phá kế hoạch “chụp điểm” đồng thời phải diệt các
sắc lính thực hiện bình định, phá âm mưu dồn dân, ép dân
vào ấp Tân Sinh. Ấp Tân Sinh ra đời trong chính sách bình
định nông thôn của chính quyền Sài Gòn và nhanh chóng
được triển khai ở miền Nam Việt Nam từ năm 1964. Đây
là một loại hình dồn dân lập ấp kiểu mới mà Mỹ và chính
quyền Việt Nam Cộng hòa xem là một chính sách rất quan
trọng, một biện pháp bình định kế thừa quốc sách “ấp chiến
lược” trước đó đã thất bại trong chiến lược Chiến tranh đặc
biệt. Bao quanh mỗi ấp Tân Sinh là hào rộng 3m, đáy 2m,
sâu hơn 1,5m. Bờ đê đất cao khuất tầm mắt của một người.
Ngoài hào là các vòng rào kẽm gai được cài mìn và lựu đạn.
184

19.5 Page 185

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Do tính chất của chiến trường Nhơn Trạch, Long Thành
ngày càng ác liệt, đến trung tuần tháng 4-1966, Ban Chỉ huy
Miền quyết định thành lập Đặc khu Rừng Sác với ký hiệu
T-101 (sau đổi là Đoàn 10) do đồng chí Lương Văn Nho làm
Chỉ huy trưởng. Hoạt động của Đoàn 10 đã hỗ trợ nhiều cho
phong trào đấu tranh của các xã của huyện Nhơn Trạch. Đầu
tháng 10-1966, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chủ
trương sáp nhập 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa lấy
tên là tỉnh Long Bà Biên. Huyện Long Thành - Nhơn Trạch
cũng được sáp nhập lại gọi là huyện Long Thành. Đồng chí
Nguyễn Văn Thông được cử làm Bí thư Huyện ủy. Tỉnh ủy
chọn huyện Long Thành làm điểm mở vùng. Để tăng cường
lực lượng vũ trang cho Long Thành mở vùng, một trung đội
của huyện được sáp nhập vào đại đội 240 của tỉnh đóng trên
địa bàn huyện (đại đội 240 có tới 4 trung đội). Huyện ủy chỉ
thị cho các xã phải tăng cường bổ sung lực lượng du kích,
lập danh sách để tiếp nhận, bổ sung nguồn vũ khí từ huyện.
Đại đội 240 nghiên cứu tình hình và tổ chức tấn công vào lực
lượng “Bình định nông thôn” của địch để hỗ trợ cho phong
trào đấu tranh cách mạng, phá thế chia cắt của địch. Nắm
được tình hình và phối hợp với lực lượng du kích, đại đội
240 tổ chức tấn công vào lực lượng bình định của địch tại
khu vực Đường Bờ xã Phú Hội. Theo dõi và nắm bắt thông
1  Đặc khu Rừng Sác gồm 10 xã thuộc địa bàn rộng lớn của huyện Nhơn
Trạch của tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa, Gia Định. Diện tích khoảng 600km2,
phía Đông giáp đường 15, phía Tây giáp sông Sài Gòn, phía Bắc giáp
đường 19, phía Nam giáp biển Đông.
185

19.6 Page 186

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tin khi có đoàn cán bộ bình định nông thôn của địch đến khu
vực cư dân, lực lượng vũ trang đại đội 240 phối hợp với du
kích xã Phú Hội tổ chức trận đánh. Khi nắm tin tức sư đoàn
18 địch ở địa bàn rút, chỉ còn lại đoàn bình định nông thôn
ở lại, lực lượng cách mạng tổ chức tấn công vào ban đêm,
bắt sống đoàn trưởng Lê Văn Năm và một số thành viên.
Tiếp theo thắng lợi này, cách mạng tổ chức tấn công tiếp
vào đoàn bình định nông thôn ở khu vực Bến Cam (Phước
Thiền). Lối đánh táo bạo của lực lượng cách mạng và tổn
thất nặng nề của lực lượng bình định nông thôn làm cho
địch hoảng sợ, không dám hành động hung hăng như trước.
Sau thời gian chính quyền địch tưởng chừng đẩy được lực
lượng cách mạng khỏi địa bàn Phú Hội thì bị tấn công ngay
trên địa bàn. Thắng lợi từ hai trận đánh của đại đội 240, du
kích ở Phú Hội, Phước Thiền đã cổ vũ tinh thần trong quần
chúng cách mạng, bắt đầu mở thế cho phong trào cách mạng
tại Phú Hội nói riêng cũng như Nhơn Trạch nói chung.
Trên địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành, Quân Mỹ và
lính Việt Nam Cộng hòa thực hiện kế hoạch “Chụp điểm”
không hiệu quả nên chuyển sang kế hoạch “Hai gọng kìm”.
Quân đội chính quyền Sài Gòn bảo vệ vùng hậu cứ, quân
viễn chinh Mỹ đánh phá vùng sâu, vùng căn cứ với mục
tiêu triệt xóa các cơ quan lãnh đạo của cách mạng. Đầu năm
1967, địch điều quân thêm về Long Thành, trong đó có binh
lính Thái Lan trong đồng minh quân sự của Mỹ ở Đông
Nam Á can dự vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Lữ
đoàn Mãng Xà của Thái Lan tập trung càn quét, đánh phá
186

19.7 Page 187

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
vào lực lượng cách mạng vùng đồn điền cao su và theo lộ
17 xuống các vùng Nhơn Trạch. Tại Phú Hội theo trục lộ17,
địch điều Liên đội 33 về đóng ở đình Phú Mỹ. Trước sự kìm
kẹp và đánh phá vào nhân dân của địch, Huyện ủy Long
Thành phát động du kích tổ chức trừng trị những tên ác ôn.
Du kích xã ở Nhơn Trạch, Long Thành đột kích tiêu diệt
nhiều tên ác ôn ở các xã, ấp. Lực lượng cách mạng sáng tạo
ra nhiều cách diệt lính địch hiệu quả. Vào tháng 2-1967,
lính địch mở đường từ đồn Phú Mỹ về Bến Sắn, phát hiện
trên mặt đường gần khu Nhà Mồ có một số lựu đạn nên tụ
lại kiểm tra. Khi địch đến xem, từ phía trong vườn phục
sẵn, đồng chí Quốc ném 2 trái lựu đạn, diệt 3 lính và làm bị
thương 6 tên. Biết địch sẽ đuổi bắt, anh Quốc rút nhanh về
phía vàm Đồng Môn. Nửa giờ sau, một đại đội địch càn vào
bao vây ấp lùng sục nhưng không tìm ra dấu vết gì. Lính
địch bắn chết 2 cụ già đã ngoài 80 tuổi. Đồng bào xã Phú
Hội, Phước Thiền thuê xe lam chở xác 2 cụ lên quận đấu
tranh. Trước bằng chứng cụ thể người dân đấu tranh, tên
quận trưởng quanh co chối cãi: “Rất tiếc là đồng bào cứ để
Việt Cộng trà trộn rồi tìm cách giết lính quốc gia”. Người
dân đấu tranh: “Các ông có súng trong tay còn không làm gì
được Việt Cộng nữa là chúng tôi tay không. Các ông thường
nói là các ông bảo vệ chúng tôi, có đâu chúng tôi tay không
lại đi bảo vệ các ông”1. Sau đó, chính quyền địch phải chấp
nhận bồi thường cho các gia đình.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những
chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr. 334-335.
187

19.8 Page 188

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Chính quyền địch dùng bom pháo hủy diệt rừng, kết
hợp xe tăng, xe ủi tàn phá địa bàn, tăng cường lực lượng
hành quân liên tục phía ngoài, xây dựng lại ấp chiến lược
tăng cường lính bình định đánh phá bên trong gây cho lực
lượng xã Phú Hội nhiều khó khăn. Bằng tư tưởng tiến công,
đội dân quân du kích xã Phú Hội đã đào hầm bí mật để trụ
lại, tìm mọi cách vào ấp diệt ác, phá kìm, đánh bọn bình định
bên trong. Bên trong ấp, nhân dân vẫn duy trì hoạt động bí
mật với việc rải truyền đơn kêu gọi lính bình định không
được đàn áp người dân. Người dân tiếp tục thực hiện các
hoạt động “ráp chà, phá đường, đào cống, cắt kẽm” để duy
trì việc đi lại, liên lạc với cách mạng. Ban đêm, người dân
trong ấp chiến lược làm chông đinh cài trên đường lính địch
hay đi tuần. Khi vào các khu vườn sản xuất, người dân làm
chông tre để ngăn địch hành quân vào các vùng cách mạng
trú đóng khu vực rừng Giồng. Nhân dân tổ chức ráp chà và
lấp đường trên các trục lộ để làm giảm mức độ hành quân
của địch. Lính địch khi thấy chà gai, đường lấp trên đường
tiến đến tháo gỡ thì bị mìn gài phía dưới nổ sát thương. Sau
này, khi phát hiện, lính bắt người dân tháo gỡ sau đó mới
hành quân. Biết được thủ đoạn của địch, nhân dân chỉ ráp
chà, đào lấp đường hông, gài trái, khiến lính địch tụ tập lại
để lực lượng vũ trang phục kích tấn công theo lối du kích.
Tiểu đoàn 800, đại đội 240 cùng du kích địa phương phục
kích diệt bọn bảo an ở đồn Phú Hội. Lực lượng vũ trang
188

19.9 Page 189

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
phục kích và tại chùa Mít Nài1 đón đánh địch hành quân
hướng Xóm Hố. Từ trên điểm cao, mũi chính diện, đồng chí
Bảy Nghĩa chỉ huy cho nổ 3 trái cối 60 trúng vào đội hình
lính khiến chúng bỏ chạy tán loạn. Cùng lúc đó 2 mũi phía
sau do các đồng chí Tạ Nông, Trần Minh Rạng đánh bọc
lên. Lính địch bị bao vây các ngả nên phân tán và bắn trả.
Nhằm giải quyết nhanh gọn trận đánh, tránh kéo dài khi địch
được tiếp viện, đơn vị xông lên đánh giáp lá cà, diệt 56 tên,
thu 1 đại liên, 1 cối 61 li, 3 trung liên Mỹ, 13 khẩu carbine, 1
thùng đạn, 2 máy PRC-10. Trận đánh này được chuẩn bị chu
đáo, hiệp đồng đánh chặt chẽ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch,
gây tiếng vang lớn ở Nhơn Trạch, Long Thành2.
Từ tháng 3-1967, địch tiếp tục điều quân và tổ chức
các cuộc càn quy mô lớn. Chúng đưa về 60 xe tăng, hai tiểu
đoàn từ phía Phú Xuân, Nhà Bè tràn sang, 2 tiểu đoàn biệt
kích dù từ Biên Hòa chuyển đến, kết hợp với 3 tiểu đoàn tại
chỗ tổ chức bao vây tấn công khu Lòng Chảo. Cuộc càn kéo
dài gần 2 tuần lễ. Theo lộ 17 địch đưa 1 đại đội về tái lập
đồn Mít Nài, điều về đồn Phú Hội và 1 tiểu đoàn bảo an tại
Phú Mỹ 1. Tình hình ở Phú Hội hết sức căng thẳng trên lộ
17 và 19 khiến người dân bị kềm kẹp, không dám ra đồng,
chợ không có người họp. Ban đêm cũng như ban ngày hễ
nghe chỗ nào có tiếng chó sủa là địch đổ quân bao vây. Ba
1  Hiện nay là chùa Phú Quang, thuộc ấp Phú Mỹ 2.
2  Thắng lợi của trận đánh này, Đại đội 240 được trao tặng Huân chương
Chiến công hạng Nhì của Quân khu.
189

19.10 Page 190

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đoàn bình định được cử về ở các xã Phú Hội, Phú Mỹ và
Phước Thiền tiến hành xây dựng ấp Đời Mới. Sau một thời
gian kéo dài cả tháng địch đã sử dụng tới 2 tiểu đoàn, có
xe tăng hỗ trợ bao vây, hù dọa mới xây dựng được ấp kiểu
mẫu Bến Sắn. Nhân lúc địch tổ chức khánh thành ấp Bến
Sắn, lực lượng vũ trang huyện và du kích các xã Tam An,
An Lợi, Phước Nguyên, Phước Thiền, Phú Hội kết hợp chia
làm 3 mũi tiến công diệt 32 tên địch. Từ năm 1966 đến năm
1967, phong trào cách mạng của xã Phú Hội vẫn duy trì
nhưng gặp nhiều khó khăn. Kế hoạch chụp điểm với trọng
tâm đánh phá khu Lòng Chảo đã chia cắt lực lượng vũ trang,
du kích và nhân dân địa phương. Sau mỗi lần địch cày ủi,
đánh phá căn cứ người dân Phú Hội chạy lên để nắm thông
tin, thấy cảnh đất cây ngổn ngang, hầm bí mật bị san lấp,
những con tê tê (trút) chết cháy, nhiều người lo lắng, cứ lo
nghĩ sợ chiến sĩ, du kích trong các hầm, hào không thoát ra
được, hy sinh.
Ngày 2-5-1967, Thường vụ Khu ủy miền Đông ra
quyết định số 12/QĐ/K chỉ định Ban Chấp hành Huyện
ủy Long Thành gồm 15 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn
Thông giữ chức Bí thư, Châu Văn Lồng (Phó Bí thư), Minh
Chính, Nguyễn Quang Hạnh (Ủy viên thường vụ) và các ủy
viên: Huỳnh Văn Sang, Dương Văn Thà, Nguyễn Văn Sanh,
Trần Trung Tấn, Thành Minh, Nguyễn Văn Hà, Nguyễn
Văn Đức, Trần Văn Nhiệm (Mười Thọ), Nguyễn Nghi Phát,
Nguyễn Văn Bền, Trương Văn Bông.
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Địch không từ bỏ âm mưu thâm độc nào để đánh phá
cách mạng, trong đó có thủ đoạn gây độc cho nguồn nước
sinh hoạt. Lính địch khi hành quân, mang theo thuốc độc
đổ xuống giếng Mít Nài thuộc Xóm Hố nhằm làm tổn hại
cho lực lượng cách mạng. Ngày 19-9-1967, lính Thái Lan
từ chùa Nước Nhĩ tổ chức càn vào Xóm Hố, Phú Hội. Du
kích địa phương do đồng chí Hồ Minh Lực (Hai Lực) chỉ
huy, gài mìn và dùng ĐH-10 chặn đánh trên Đường Bờ diệt
và làm bị thương 36 lính Thái Lan. Địch rút về và cho pháo
bắn cấp tập, sau đó tổ chức một tiểu đoàn lính Thái Lan càn
quét, có xe tăng yểm trợ tràn vào Xóm Hố đốt nhà dân và
địa bàn lân cận. Trong các trận đánh địch trên địa bàn Phú
Hội, có những chiến sĩ, du kích hy sinh: Huỳnh Văn Thương
hy sinh vào ngày 1-3-19671, trận đánh địch ở Phú Mỹ ngày
6-5-1967, đồng chí Đặng Văn Bụng2 hy sinh và một số cán
bộ, chiến sĩ, du kích bị thương. Chiến sĩ Bình - du kích xã
Phú Hội trong một trận đánh, bị địch bắt, sau này đưa đi
giam tù, sau này được thực hiện trao trả theo thỏa thuận sau
hiệp định Paris.
Ngày 7-10-1967, Trung ương Cục miền Nam quyết
định giải thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu chuẩn bị
cho nhiệm vụ đấu tranh giai đoạn mới. Huyện Long Thành
1  Con của bà Đặng Thị Quốc (1917 - 2019), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
2  Con của bà Lê Thị Hai (1922 - 2014), xã Phước Thiền, được truy tặng
Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014, có 2 người con là liệt sĩ.
191

20.2 Page 192

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
lại được tách ra làm 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch.
Xã Phú Hội huyện Nhơn Trạch trực thuộc Phân khu 41. Phân
khu 4 bao gồm các địa bàn: vùng cao su Bình Sơn, Long
Thành, Nhơn Trạch, Cần Giờ, Nam Thủ Đức, Quận 1, Quận
9 Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Văn Chiến (Mười Chiến) - Bí
thư, đồng chí Lê Quang Chữ - Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn
Trọng Cát (Ba Đắc) - Ủy viên thường vụ, đồng chí Lương
Văn Nho - Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Hải (Tám Hải) - phụ
trách an ninh. Đầu tháng 12-1967, Phân khu 4 đã điều thêm
quân số, vũ khí về Long Thành và chỉ đạo cho địa phương
chuẩn bị dự trữ lương thực. Chiến trường giữa ta và địch
lúc này rất căng thẳng, Mỹ thường tổ chức những cuộc càn
lớn cấp trung đoàn có xe tăng, phi pháo yểm trợ vào căn cứ.
Vùng Lòng Chảo, địch đã chọn khu Bàu Bông, Hang Nai,
Xóm Hố - Phú Hội là những điểm được chọn để đánh phá,
hủy diệt. Trong lúc giặc Mỹ đánh phá vùng cửa khẩu, thì
lính Thái Lan tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét vùng
Lòng Chảo, bao vây đốt phá xóm ấp, cướp phá tài sản của
người dân.
Chuẩn bị cho đợt Tổng tiến công và nổi dậy, Bộ phận
An ninh Phân khu 4 gấp rút củng cố lực lượng, xây dựng
các phương án chiến đấu và sẵn sàng làm nhiệm vụ. An ninh
1  Bí thư của Phân khu 4 qua những thời gian cụ thể như sau: Nguyễn
Văn Chiến (10-1967 đến tháng 3-1968), đồng chí Lê Quang Chữ (3-1968
đến tháng 2-1969), đồng chí Lê Đình Nhơn (9-1969 đến tháng 4-1970),
Nguyễn Hải (4-1970 đến tháng 10-1971).
192

20.3 Page 193

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Phân khu 4 chia làm 2 bộ phận: An ninh tiền phương với
địa bàn hoạt động từ sông Đồng Nai hướng vào nội thành
Sài Gòn (quận 1, quận 9, Nam Thủ Đức) và An ninh hậu
cứ gồm cán bộ, chiến sĩ an ninh huyện Long Thành, Nhơn
Trạch và Ban cán sự cao su. Tổ chức đảng của huyện Nhơn
Trạch lúc bấy giờ có 155 đảng viên (cơ sở 122, cơ quan
33), 25 nữ đảng viên, 16 chi bộ (1 chi bộ mật), 45 chi ủy
viên1. Giữa tháng 1-1968, đồng chí Nguyễn Trọng Tân (Hai
Lực), nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc
phái viên của Trung ương Cục đến căn cứ Rừng Sác (Phước
An) triển khai nhiệm vụ, kế hoạch của Phân khu ủy Phân
khu 4 và Đặc khu Rừng Sác. Ngày 26-1-1968, tại căn cứ
Lòng Chảo, đồng chí Nguyễn Văn Thông đại diện cho Phân
khu ủy về triển khai, quyết định giờ nổi dậy tấn công. Đêm
giao thừa tết Mậu Thân, theo giờ đã ấn định, tiếng súng của
quân dân huyện Nhơn Trạch, Long Thành bắt đầu nổ đồng
loạt cùng với đồng bào miền Nam tấn công quân địch trên
khắp các chiến trường. Ở Nhơn Trạch, các chiến sĩ Đại đội
240 do đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai trực tiếp chỉ
huy tiến công chi khu Nhơn Trạch. Du kích các xã hỗ trợ
nhân dân nổi dậy bao vây tấn công đồn địch trên các trục
lộ. Tại bốt Nhà Mồ, sau 20 phút áp đảo kẻ thù, lực lượng
cách mạng diệt gọn 1 trung đội bảo an, thu toàn bộ súng. Tại
1  Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (2015), Lịch sử Đảng bộ
Quân sự tỉnh Đồng Nai (1945 - 2010), Nxb. Đồng Nai, tr.128 (nguồn Bản
số 17 (D.7B) của Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng, Tài liệu lưu tại
Phòng Khoa học Quân sự Quân khu 7).
193

20.4 Page 194

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
bốt địch ở nổng Nhà Thờ, cách mạng diệt 20 lính bảo an và
cảnh sát. Đồng bào cùng du kích các xã theo lộ 19 nổi dậy
nổ súng bao vây tấn công đồng Phước Long, Phước Thọ và
đồn Gò Cát. Trên lộ 17, Đoàn 10 dùng cối 81 li bắn vào chi
khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy Hạ, phá hủy một số
cơ sở của địch.
Sau những bất ngờ trước sự nổi dậy của quần chúng
và tấn công của lực lượng cách mạng, chính quyền Sài Gòn
phản công. Trên chiến trường chung của miền Nam, lực
lượng quân giải phóng bị tổn thất và rút ra khỏi các mục
tiêu. Chấp hành sự chỉ đạo của Phân khu ủy, sau khi rút
kinh nghiệm qua đợt tấn công lần thứ nhất, Huyện ủy Nhơn
Trạch lên kế hoạch và chuẩn bị bước vào đợt hai và đợt ba1.
Đối phó với những cuộc nổi dậy tấn công của quân cách
mạng, địch điều thêm quân về Nhơn Trạch gồm Tiểu đoàn
345 bảo an, Tiểu đoàn 58 Biệt động quân và 15 xe tăng và
60 xe ủi, âm mưu càn quét đánh phá các xã ven lộ 17.
Các hoạt động của chiến dịch nổi dậy, tấn công trong
năm 1968 của cách mạng miền Nam tập trung vào cơ quan
đầu não quân Mỹ, quân lực Việt Nam Cộng hòa vùng đô
thị và các mục tiêu trọng điểm. Do nhiều yếu tố tác động,
nhất là tính bất ngờ không còn, chủ quan trong đánh giá
tình hình nên đợt 2 và 3 đã không đem lại hiệu quả và gây
nên những tổn thất về quân số. Tuy nhiên, cả ba đợt trong
1  Đợt 2: từ ngày 5-5 đến ngày 15-6-1968, đợt 3: từ ngày 17-8 đến ngày
30-9-1968.
194

20.5 Page 195

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Tổng tiến công và nổi dậy góp phần quan trọng trong chiến
lược chung, quân dân cách mạng đã đánh bồi liên tiếp, đập
tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ
Giôn-xơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành
viên chính thức tham gia hòa đàm tại Paris. Thắng lợi này
góp phần cho cách mạng thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội
nghị Paris. Những trận tấn công của quân dân Nhơn Trạch
trong các đợt nổi dậy Xuân 68 đã gây cho địch nhiều thiệt
hại nặng nề, góp phần làm cho chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ, chính quyền Sài Gòn phá sản. Góp phần chung
trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân ở Nhơn
Trạch, quân dân Phú Hội đã vượt nhiều gian khổ, nguy hiểm
để chuẩn bị cơ sở, vận chuyển vũ khí, đào hầm nuôi giấu cán
bộ, chiến sĩ. Các cơ sở cách mạng tại Phú Hội đã tham gia
tích cực trong các tổ dân công: tải đạn, tải thương binh tại
địa phương đến các địa bàn Thủ Đức, Suối Cả, Sông Nhạn,
Bàu Hàm, Nhân Nghĩa, Long Thọ... phục vụ chiến trường
và hậu cần. Tổ dân công Lê Văn Bụi, Đặng Văn Nhường,
Đặng Văn Bon, Lê Văn Ánh, Nguyễn Thị Hạnh, Đào Thị
Quốc, Lê Thị Hai, Nguyễn Thị Xanh1... tham gia tích cực
tải thương từ Vàm Môn về Long Thọ. Lực lượng vũ trang
cách mạng của huyện, của Phú Hội cũng tổn thất, hy sinh
1  Cô Nguyễn Thị Mai - nhân chứng tham gia kháng chiến chống Mỹ tại
địa phương, cung cấp.
195

20.6 Page 196

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
trong những đợt tấn công vào kẻ thù. Chiến sĩ Nguyễn Văn
Hiệp1, Lý Minh Tiến2, du kích xã Nguyễn Văn Chiến3 trong
những trận đánh, chống địch càn, đột ấp hoạt động đụng
độ với địch, chiến đấu và hy sinh anh dũng. Hai anh em
cùng trong lực lượng chiến đấu của xã Phú Hội là Nguyễn
Công Lâm, Nguyễn Công Lầm4 và các đồng chí Phạm Văn
Mới5, Phan Văn Hường6, Huỳnh Văn Hết7, Thái Minh Trí8...
hy sinh trong những đợt đánh địch, thực hiện nhiệm vụ ở
địa phương.
4. Giữ vững phong trào, chuẩn bị tiến lên giải phóng
(1969 - 1972)
Sau những đợt tấn công của quân dân cách mạng miền
Nam năm 1968, quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn quyết
tâm giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam.
1  Con của bà Nguyễn Thị Cảnh (1923) xã Long Tân, được phong tặng Bà
mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
2  Con của bà Lê Thị Trừng (1920 - 1992), xã Phước Thiền, được phong
tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
3  Con của bà Trần Thị Nhị (1924 - 1997), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 3 con là liệt sĩ.
4  Con của bà Nguyễn Thị Mười (1906 - 1998), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
5  Con của bà Lê Thị Bộ (1916 - 2001), được truy tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
6  Con của bà Nguyễn Thị Thâu (1920 - 1980), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2014, có chồng và 1 con là liệt sĩ.
7  Con của bà Đặng Thị Quốc (1917 - 2019) được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
8  Con của bà Đặng Thị Nghĩa (1911 - 1995), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 2014, có 2 con là liệt sĩ.
196

20.7 Page 197

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Địch bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”. Đây là thủ đoạn thâm độc của Mỹ để từng bước
tránh những tổn thất về binh lực đang trên chiến trường và
thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”.
Đại diện của chính phủ Mỹ và chính phủ nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực hiện nhiều cuộc gặp, thảo
luận về một hiệp định chấm dứt chiến tranh. Trên địa bàn
Nhơn Trạch, Long Thành, binh lính Úc tiến hành các cuộc
càn quét lại địa bàn, tạo nên thế tranh chấp giữa cách mạng
và địch hết sức căng thẳng. Quân lính Mỹ được bố trí hàng
trăm cụm lính tạo thế vừa bao vây lực lượng cách mạng mở
vùng hoạt động, vừa chia cắt các khu dân cư, ngăn chặn các
đường dây tiếp tế đến căn cứ.
Huyện Nhơn Trạch đẩy mạnh công tác binh vận trong
các sắc lính gồm Mỹ, Úc, Thái Lan và binh lính người Việt
trong quân đội Việt Nam Cộng hòa trên địa bàn. Ta rải hơn
hai trăm ngàn truyền đơn viết bằng các thứ tiếng Anh, Thái,
Việt vạch rõ chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa,
gây tội ác với nhân dân Việt Nam, nêu rõ cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa. Truyền đơn kêu gọi
binh sĩ Sài Gòn buông súng về nhà làm ăn, lính Mỹ và Thái
chống lệnh hành quân bằng mọi cách, đấu tranh đòi về nước
để khỏi chết vô nghĩa... Cơ sở cách mạng ở các xã Nhơn
Trạch làm công tác binh vận trực tiếp đến các gia đình binh
sĩ địch. Nhiều gia đình đã kêu gọi những người thân đi lính
cho quân đội Sài Gòn đào ngũ.
197

20.8 Page 198

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Quân lính Mỹ trên chiến trường miền Nam từng bước
được rút ra. Những lực lượng còn lại và quân lực Việt Nam
Cộng hòa tiếp tục tăng cường thực hiện kế hoạch bình định
cấp tốc, tổ chức càn quét, đánh phá với quy mô lớn. Địch
sử dụng mọi hình thức, thủ đoạn đánh phá, ruồng bố, càn
quét kết hợp với phi pháo kể cả máy bay chiến lược B52
và rải chất độc hóa học hủy diệt địa hình, nhằm phá nát bàn
đạp đứng chân của lực lượng cách mạng. Cường độ chiến
tranh căng thẳng và ác liệt. Đây là thời kỳ mà địch coi là
thời cơ “Tiến lên phía trước” để đẩy lực lượng cách mạng ra
khỏi các mục tiêu cần bình định. Tình hình NhơnTrạch căng
thẳng khi địch tổ chức hàng loạt cuộc càn, truy quét, chà
đi xát lại để phát hiện, tìm diệt, ngăn chặn lực lượng cách
mạng. Trong mỗi xã đều có một cuộc cảnh sát do 1 thiếu úy
hoặc 1 trung úy từ quận đưa xuống làm trưởng cuộc. Cán
bộ bình định được tăng cường, ngoài ra ở mỗi xã còn có
một lực lượng tình báo “Phượng hoàng 39” và một số địa
phương quân nội tuyến. Ở từng xã chúng lại đặt nhiều trạm
kiểm soát, kìm kẹp rất gắt gao đồng bào trong đi lại, sinh
hoạt đặc biệt là dọc các tuyến lộ, tăng cường dồn dân vào
ấp kiểm soát theo kiểu mới, càn quét vào những xã chúng
nghi là căn cứ của cách mạng. Lực lượng cảnh sát, những
người tham gia cách mạng đã chiêu hồi quốc gia được sử
dụng triệt để ở các địa phương vừa chỉ điểm và khám xét
lục soát nhà dân bị tình nghi với Việt Cộng. Trên địa bàn
Nhơn Trạch, Long Thành, binh lính Úc tiến hành các cuộc
198

20.9 Page 199

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
càn quét lại địa bàn, tạo nên thế tranh chấp giữa cách mạng
và địch hết sức căng thẳng. Chiến trường ở thế đan xen, lực
lượng cách mạng và địch ở những địa bàn sát nhau, trong
thế giành giật quyết liệt. Quân lính Mỹ được bố trí hàng
trăm cụm lính trên địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành tạo thế
bao vây, ngăn chặn cách mạng mở rộng địa bàn hoạt động.
Tình hình càng khó khăn cho lực lượng cách mạng địa
phương hoạt động, bắt liên lạc với nhau vì địch liên tục càn
quét, chà đi xát lại trên nhiều địa bàn, trục lộ quan trọng.
Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho lực lượng vũ trang bám
dân bám đất, đánh địch giữ vững các địa bàn, đứng chân
đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Ở Phú Hội, phong trào đấu
tranh chính trị được tổ chức. Trung tuần tháng 3, lính Thái
Lan tràn vào Xóm Hố đốt phá, bắn chết bà Tám Nén..., đốt
hàng chục nóc nhà, chặt cây trong vườn, với ý đồ dồn người
dân phải ra sát trục lộ 17 để cất nhà ở. Chi bộ xã vận động
quần chúng tổ chức thành nhiều đoàn về quận đấu tranh,
phản đối lính địch bắn chết người dân vô tội, đòi bồi thường
nhân mạng và thiệt hại về nhà cửa. Quận trưởng Nhơn Trạch
nhượng bộ, phải hứa bồi thường.
Khu căn cứ Lòng Chảo ở Nhơn Trạch bị địch tập trung
lực lượng, phương tiện đánh phá ác liệt. Huyện ủy Nhơn
Trạch và lực lượng chủ lực phải thực hiện việc phân tán để
bảo toàn lực lượng. Tình hình vô cùng khó khăn. Đường
dây vận tải vũ khí, lương thực của ta thường bị gián đoạn.
199

20.10 Page 200

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Xã đứt liên lạc với huyện, huyện đứt liên lạc với Phân khu,
Phân khu đứt liên lạc với Trung ương Cục. Trên đồng ruộng,
sông rạch không lúc nào vắng địch, trong ấp lính nhiều hơn
dân. Cán bộ, chiến sĩ tản ra thành tổ nhỏ, đào hầm bí mật
để trú nấp trong điều kiện không móc nối được với cơ sở,
người dân, lương thực không có. Lúc bấy giờ, người dân
Xóm Hố - Phú Hội tiếp tế nhưng chỉ đáp ứng một phần nào
khi các chiến sĩ, bộ đội đột kích an toàn.
Tháng 6-1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm
điểm tình hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch. Đồng chí
Lê Đình Nhơn được Trung ương Cục miền Nam chỉ định
làm Bí thư Phân khu ủy Phân khu 4. Huyện ủy Nhơn Trạch
chỉ đạo cho lực lượng vũ trang bám dân đánh địch giữ vững
các địa bàn, đứng chân đẩy mạnh đấu tranh chính trị, nhân
dân bám đất đẩy mạnh sản xuất. Trước tình hình khó khăn
về vũ khí, Huyện ủy Nhơn Trạch phát động các xã tìm nguồn
cung cấp để chuyển đến Binh công xưởng ở căn cứ Rừng
Sác. Trước tình hình khó khăn về vũ khí, Huyện ủy Nhơn
Trạch phát động các xã tìm nguồn cung cấp. Bằng hình thức
thu gom các loại vũ khí cũ, sót lại của địch sau các trận
đánh địch càn, đội du kích Phú Hội đã tìm kiếm được 30 trái
pháo, 5 mìn mo, 14 lựu đạn, 10 ngàn đạn nhọn chuyển về
cho công binh xưởng. Việc thu gom, tìm kiếm như thế này
rất nguy hiểm trong tiếp cận, xử lý và vận chuyển. Những
nguyên liệu, đạn dược, thuốc nổ chuyển đến Binh công
xưởng là một quá trình gay go, chứa đựng sự hy sinh lớn lao
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
của quân dân Nhơn Trạch. Lực lượng 240 đóng trên địa bàn
huyện tổ chức những trận đánh vào quân địch. Trung đội cối
thuộc Đại đội 240 đã đánh bốt Phú Mỹ, diệt gọn 1 trung đội
bảo an, bắt sống 9 tên, thu 7 súng; bắn cối vào bót Nhà Mồ
(địa điểm xã Phú Hội giáp xã Phước Thiền) diệt 1 trung đội
dân vệ. Trong một trận đánh với địch, đại đội 240 bị tổn thất
với 3 chiến sĩ hy sinh (Dung, Mai Thị Dung1, ...), 3 chiến sĩ
Hồ Văn Hùng, Hiệp, Cải bị thương.
Trong tình hình ác liệt của chiến trường, tin Chủ tịch
Hồ Chí Minh mất đến với quân dân Nhơn Trạch. Huyện ủy
Nhơn Trạch không tổ chức hội nghị được vì lực lượng phân
tán. Trong lúc rừng Lòng Chảo vẫn ầm ì tiếng bom, đạn của
địch, Thường trực Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho các
chi bộ tuỳ theo hoàn cảnh của từng nơi mà tổ chức lễ truy
điệu. Chính quyền địch cho cảnh sát tăng cường đi tuần tra
các khu dân cư để nắm tình hình và ngăn không cho tụ tập
để hướng về lãnh tụ của cách mạng ở địa bàn. Nhưng lòng
người dân Nhơn Trạch hướng về Bác Hồ bằng nhiều cách
mà bọn địch không thể tìm được lý do tra vấn hay bắt bớ,
làm khó. Người dân Nhơn Trạch đốt nhang trên bàn thờ
liên tục trong nhà tưởng nhớ Bác Hồ. Nhiều người tự may
băng tang đeo trên áo. Đặc biệt, tại đình Phú Mỹ xã Phú
Hội, dù bót địch đóng nhiều lính nhưng người dân hướng
1  Đồng chí Mai Thị Dung, con của bà Trương Thị Bê (1930 - 1999), xã
Đại Phước, được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1995, có
chồng và 3 con là liệt sĩ.
201

21.2 Page 202

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
về Bác Hồ bằng cách riêng khiến lính địch theo dõi, kiểm
soát nhưng không phát hiện được. Các bô lão của Phú Mỹ là
bác Chín Xuân, Nguyễn Văn Liệp (Tám Liệp), Nguyễn Văn
Nương bàn với nhau thờ hương linh của Bác ở đình làng.
Bác Chín Phương làm nghề thầy thuốc, giỏi chữ Nho chọn
3 câu trong cổ văn (Kinh thi), khắc lên thành ba bức hoành
phi, đưa vào đình. Ba bức hoành phi treo riêng biệt, cùng
hàng ngang ở cột đình, mỗi chữ đầu ghép lại hợp thành Hồ
Chí Minh: Hồ nhiên như thiên, Chí vọng thâm ân, Minh
hoài hậu đức. Người dân khi vào đình trong các lễ ở đình,
đốt nhang, tưởng nhớ Bác Hồ.
Trong những ngày để tang Bác, Huyện ủy Nhơn Trạch
phát động một phong trào biến đau thương thành hành động
cách mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày đầu tháng 9, Đại đội 240
và du kích các xã tổ chức các trận đánh vào địch, diệt hơn
40 tên địch. Mỗi trận đánh dù lớn hay nhỏ hoặc chỉ gây một
tiếng nổ lúc này đều mang một ý nghĩa rất lớn, khẳng định
cách mạng xã vẫn bám được xã, lực lượng huyện vẫn bám
được địa bàn huyện và tinh thần đánh giặc vẫn được duy trì
dù đường dây liên lạc không còn thông suốt như trước.
Trên chiến trường, địch vẫn duy trì cấp độ đánh mạnh,
phá mạnh các cơ sở cách mạng. Qua khai thác thông tin của
những kẻ chiêu hồi, địch nắm bắt và tổ chức kế hoạch đánh
vào phía bắc khu Lòng Chảo, căn cứ của Phú Mỹ, Phước
Thiền và quân chủ lực Đoàn 4. Trên địa bàn xã Phú Hội, tổn
202

21.3 Page 203

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thất lực lượng cách mạng đã xảy ra vì sự phản bội của một
số tên chiêu hồi, chỉ điểm. Đặng Văn Đức1, Huỳnh Ngọc
Sơn2 - chiến sĩ Đại đội 240 hy sinh trong lúc cùng đồng đội
tham gia đánh đồn, chống địch càn tại Xóm Hố. Du kích
xã Lê Thị Mười3, trong một lần dừng quân ở Xóm Hố, bị
tay chiêu hồi khai báo, địch cho quân phục kích. Nguyễn
Thị Nhàn4, hy sinh vào tháng 6-1970 khi bị địch phục kích.
Ngày 7-9-1969, trong vòng vây của địch, chiến sĩ Lê Thị
Mười chiến đấu và hy sinh, không để địch bắt sống khai
thác. Du kích Nguyễn Văn Sáu5, trước tham gia vào bộ đội
địa phương huyện, sau trở lại đội du kích Phú Hội, trực tiếp
đánh địch ở xã nhà, hy sinh ở Xóm Hố khi chống địch càn.
Trong phong trào diệt giặc, xã Phú Hội cùng với các
địa bàn khác như Bình Sơn, Lộc An, Tam An, Phước Thiền,
Phú Thạnh đã chủ động đẩy mạnh hoạt động võ trang diệt
hơn 150 tên địch (có 10 Mỹ, 20 lính Úc, 71 lính Thái Lan)
phá hủy 4 xe tăng quân sự, bắn cháy 8 trực thăng, nhận chìm
một tàu 10.000 tấn. Thu 40 súng các loại, một máy PRC10.
1  Con của bà Nguyễn Thị Hương (1910 - 2005), xã Hiệp Phước, được
phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994, có 3 con là liệt sĩ.
2  Con của bà Nguyễn Thị Cửu (1913 - 1956), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 3 con là liệt sĩ.
3  Con của bà Huỳnh Thị Cận (1905 - 1998), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 3 con là liệt sĩ.
4  Con của bà Nguyễn Thị Thiệp (1920 - 2005) được phong tặng Bà mẹ
Việt Nam anh hùng năm 1994, có 2 con là liệt sĩ.
5  Con của bà Lê Thị Đối (1917 - 2018), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 1994, có 3 con là liệt sĩ.
203

21.4 Page 204

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Bắt đầu năm 1970, chính quyền địch tăng cường bắt lính. Ở
Nhơn Trạch, Long Thành, bằng nhiều thủ đoạn, địch bắt 946
thanh niên đi lính (trong đó có 300 thanh niên là học sinh
trung học Long Thành, 114 thanh niên làng Cô nhi và 2.302
người buộc tham gia lực lượng phòng vệ dân sự; trong đó có
327 phụ nữ. Chỉ riêng xã Phú Hội, địch đã đôn được 2 trung
đội dân vệ lên bảo an. Ngày 21-2-1970, địch sử dụng 200
lượt máy bay trực thăng, hơn 250 xe tăng, xe ủi và phi pháo
yểm trợ cho lực lượng quân từ nhiều hướng tấn công mạnh
khu Lòng Chảo. Quân địch tiến hành phá ủi với quy mô lớn
để lực lượng cách mạng không còn thuận lợi để đứng chân.
Sau nhiều ngày trụ chiến, Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định
dời toàn bộ các cơ quan ban ngành ra khỏi để tránh tổn thất
và tiếp tục bám dân, móc nối liên lạc với các xã và phân khu,
có kế hoạch chỉ đạo tấn công địch từ phía Nam. Ngày 21-
3-1970, cơ quan Huyện ủy rút theo triền xã Phú Hội, Long
Tân ra xã Long Điền. Rơi vào điểm phục kích của địch,
đồng chí Xuyên, Tho chiến đấu tới viên đạn cuối cùng, hy
sinh anh dũng. Khu rừng Lòng Chảo bị địch phá ủi trắng
làm lực lượng cách mạng mất thế đứng chân nhưng kẻ địch
cũng phải trả một giá rất đắt với 43 xe tăng, xe ủi bị phá hủy,
20 máy bay bị bắn rơi. Hàng trăm lính địch bị diệt. Phong
trào chống bắt lính ở Phú Hội diễn ra mạnh mẽ. Đồng thời,
chi bộ thông qua các bà mẹ, phụ nữ vận động lực lượng bảo
an bỏ súng, đào ngũ, trở về với gia đình.
204

21.5 Page 205

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Song song với các cuộc đấu tranh chính trị, người dân
Phú Hội tìm mọi cách đóng góp, tiếp tế cho cách mạng. Bà
Trần Thị Sắc1, cơ sở cách mạng, nhà có nhiều người thoát
ly ở Phú Hội đi chà gạo về nửa đường bị lính chặn xét, phát
hiện số vải, ni lông bà giấu trong gạo. Địch bắt đưa lên đồn
Phú Hội tra khảo, rồi giải lên Biên Hòa giam cầm. Tra tấn
hay dụ dỗ, bà Trần Thị Sắc vẫn giữ vững tinh thần, không
khai nguồn tiếp tế này cho cán bộ huyện, tuyệt thực đấu
tranh buộc địch phải thả. Khi được về nhà, bà tiếp tục hoạt
động, không hề nao núng, không sợ hăm dọa của địch là
bắt bỏ tù, dọa đánh cho “lê la lê lết” khỏi cái tội tiếp tế cho
Việt Cộng.
Bà Nguyễn Thị Chánh2 là cơ sở hoạt động cách mạng
trong xã, có kẻ chiêu hồi chỉ điểm, bị lộ chưa thoát ly được,
bị lính của an ninh Ban 2 thuộc Chi khu Long Thành bắt
tại nhà cùng hai người con. Địch tra khảo dã man nhưng bà
Nguyễn Thị Chánh nhất quyết không hé lộ một tin tức gì.
Địch tiếp tục bắt chồng bà, ông Huỳnh Văn Lời tra khảo cho
đến chết.
Bà Nguyễn Thị Mành3 tại xã có 10 người con, chỉ trừ
“út gái, út trai còn nhỏ” ở nhà, còn lại thoát ly kháng chiến.
1  Bà Trần Thị Sắc (1914-2012) được phong Bà mẹ Việt Nam anh hùng
năm 1994, có 4 người con là liệt sĩ.
2  Bà Nguyễn Thị Chánh (1919 - 1999) được phong tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng năm 1994, có 2 con là liệt sĩ.
3  Bà Nguyễn Thị Mành (1925), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1994, có 3 người con là liệt sĩ: Hồ Văn Lo, Hồ Phương Trang,
Hồ Minh Cảnh.
205

21.6 Page 206

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Một hôm, địch đến nhà mời bà lên quận và áp giải luôn về
khám. Tại khám, địch đe dọa lùng bắn cho bằng được các
con của bà nếu bà không kêu gọi tụi nó về “chiêu hồi”, “quy
phục quốc gia”. Nén chịu uất hận, bà trả lời: “Con tui nó lớn
hết rồi! Tự nó thích thì nó đi. Tui không xúi không biểu, nên
tui cũng không gọi không kêu. Còn mấy ông muốn thì cứ
tìm tụi nó mà bắn, ai mà cản được mấy ông?”. Nhà bà Phan
Thị Ớn1 là cơ sở cách mạng, trong vườn nhà có nhiều hầm
bí mật giáp với triền rừng vào khu căn cứ cách mạng. Bộ
đội, du kích trong căn cứ hay liên lạc để nắm bắt tin tức. Bà
dùng quy ước để khi bộ đội, du kích nhận biết để liên lạc,
đột vào ấp. Trong ngày, khi bà giựt thùng cho tiếng vang với
ngụ ý đuổi chim két là không có lính đi càn hay mật phục và
ngược lại. Ngày 6-6-1970, như thường lệ, sáng sớm có một
toán lính đi vào triền rừng càn quét, bắn phá và trở ra. Song
địch cũng thủ đoạn là chúng phân thành hai toán, một toán
lính ém lại mật phục và một toán trở ra. Bà cứ nghĩ lính rút
hết nên làm ám hiệu “giựt thùng đuổi két”. Nào ngờ, một số
chiến sĩ, du kích đang trên đường vào thì bà phát hiện còn
lính đang mật phục ở triền rừng. Trước tình thế hiểm nguy,
bà nhanh trí và gan dạ, chạy nhanh ra la to, xua đuổi lính đi
chỗ khác để bà canh tác. Nghe tiếng hô to của bà đuổi lính,
chiến sĩ, du kích nhanh chóng rút vào cứ an toàn. Điên tiết
1  Bà Phan Thị Ớn (1912-1970) sau này được truy tặng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng năm 1994, có 2 người con là liệt sĩ: Phan Văn Tâm, Phan Văn
Châu.
206

21.7 Page 207

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
vì không còn cơ hội tiêu diệt được nhiều Việt Cộng đột ấp,
địch bắn một loạt đạn vào bà. Bà Phan Thị Ớn hy sinh mà
trong người vẫn còn viên M79 chưa kịp nổ.
Giữa tháng 10-1970, do yêu cầu nhiệm vụ mới, Phân
khu ủy đã điều động đồng chí Ba Hạnh về trên và đưa đồng
chí Nguyễn Văn Xuân về làm Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch,
bổ sung đồng chí Phạm Thanh Lý (Chín Lý) làm Phó Bí thư.
Huyện ủy quyết định điều lực lượng bám trụ Lòng Chảo gần
địa bàn các xã để có điều kiện củng cố xây dựng lực lượng
và hỗ trợ cho các xã. Đại đội 240 được chia thành 2 bộ phận,
một bám địa bàn Xóm Hố xã Long Tân, 1 bám địa bàn Xóm
Hố Phú Hội. Hỗ trợ cho phong trào quần chúng đấu tranh,
các lực lượng vũ trang đã đẩy mạnh hoạt động quân sự tiêu
hao, tiêu diệt sinh lực địch. Bộ phận về đứng chân tại Phú
Hội vừa lo ổn định ăn ở vừa bung ngay xuống xã công tác,
tổ chức phục kích diệt 3 tên địch thu 3 súng có 1 M79. Đồng
chí Phan Văn An1 - cán bộ kinh tài của huyện tổ chức đột ấp
thực hiện nhiệm vụ móc nối, tiếp tế. Hàng ngày, ông cùng
đồng đội “ém kỹ ngoài bờ ruộng”, chờ đến đêm xuống mới
bơi xuồng về ấp trong xã Phú Hội. Trong một buổi chiều,
ông không phát hiện ra tàu địch mật phục trên vàm kinh ở
xã. Một cuộc đụng độ quyết liệt xảy ra, người cán bộ kinh
tài chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh.
1  Chồng của bà Huỳnh Thị Hý (? - 1960), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994, có 2 người con là liệt sĩ.
207

21.8 Page 208

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Ngày 8-3-1970, Tiểu đội trưởng Trương Vĩnh Phúc1 (chiến
sĩ Đại đội 240), hy sinh trong khi chiến đấu ở Vườn Huệ -
nơi giáp ranh hai xã Long Tân, Phú Hội. Ngày 13-5-1970,
đồng chí Nguyễn Văn Dính2 trở về cơ sở để lấy gạo. Sau đó,
ngày 20-7-1970, Hồ Văn Ro3 và hai đồng đội đột ấp Xóm
Hố gặp cơ sở để lấy gạo tải về căn cứ. Khi trở ra, cả 3 đồng
chí vướng mìn Claymore địch gài, hy sinh. Bọn lính phục
kích gần đó đem xác về đồn Miễu phơi nắng nhằm khủng
bố tinh thần nhân dân rồi cho người nhắn thân nhân đem
về chôn cất. Cha anh là ông Hồ Văn Tư, nén đau thương,
lên xã, xin phép nhận xác đem về chôn. Phục vụ cho chiến
trường Nhơn Trạch trong giai đoạn đấu tranh ác liệt, các cơ
sở cách mạng Phú Hội tiếp tục tham gia dân công, tải đạn,
lương thực theo từng đợt từ Nhơn Trạch lên các điểm căn cứ
của tỉnh Biên Hòa.
Bước vào năm 1971, Huyện ủy Nhơn Trạch sau nhiều
lần di chuyển địa bàn hoạt động, quyết định bám trụ theo
triền Xóm Hố xã Phú Hội giáp ranh xã Long Tân - nơi duy
nhất trong vùng Lòng Chảo còn cây rừng. Địch theo dõi biết
lực lượng cách mạng bám trụ, điều 2 tiểu đoàn thuộc sư 18,
1 tiểu đoàn Mỹ thuộc lữ 199, 3 đại đội bảo an và 45 xe có
nhiều xe ủi, 4 xe phun lửa, mở cuộc càn quét với mục tiêu
1  Con của bà Châu Thị Sang (1920 - 1966), xã Phú Hữu, được truy tặng
Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1996.
2  Em của liệt sĩ Nguyễn Văn Văn, con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê
Thị Dứa (1917 - 1962).
3  Con bà Bùi Thị Chín (1930-1965), được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1995.
208

21.9 Page 209

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hốt gọn Việt Cộng trong “cái túi” của rừng Lòng Chảo. Một
số cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi địch tấn công1. Du kích Lê
Văn Thành2 hy sinh trên đường công tác do vướng mìn địch
gài. Lính đem xác anh ra bỏ ngoài đường, người dân Phú
Hội đi chợ nhận ra và báo cho gia đình đến lấy xác về chôn.
Anh Phạm Văn Cũ, sinh năm 1947, hy sinh vào ngày 5-6-
19713, đồng chí Ba Ân, Công hy sinh do sụp hầm bí mật, bị
địch phát hiện, tấn công. Xã đội phó Phú Hội, đồng chí Trần
Văn Bảnh hy sinh vào ngày 3-11-1971trên đường đi công
tác bị địch phục kích. Rừng Xóm Hố của Phú Hội, Long
Tân nhiều cây bị bật gốc, xơ xác, nhiều đoạn giao thông
hào, hầm bí mật của cách mạng bị xới tung nhưng địch cũng
không phá ủi hết được vì bị tổn thất nhiều, triền dốc quá sâu.
Lực lượng cách mạng của huyện rút khỏi vòng vây “chụp
gọn” của địch giăng ra.
Tháng 5-1971, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lại chiến trường.
Phân khu 4 sáp nhập với tỉnh Bà Rịa - Long Khánh thành
Phân khu Bà Rịa - Long Khánh4. Xã Phú Hội thuộc sự chỉ
1  Các đồng chí Hai Hiếu (cán bộ an ninh Nhơn Trạch), đồng chí Lê Minh
Hoàng (Bí thư xã Long Tân), đồng chí Nguyễn Thị Kim Thanh (y tá), đồng
chí Công (chiến sĩ Đại đội 240), đồng chí Phạm Minh Chính (nguyên là
Phó Bí thư huyện Long Thành).
2  Con của bà Trần Thị Nhạt (1911-2010), được phong tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994.
3  Em của liệt sĩ Phạm Văn Mới, con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị
Bộ (1916 - 2001), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014.
4  Phân khu Bà Rịa - Long Khánh gồm 3 thị xã: Long Khánh, Bà Rịa,
Vũng Tàu và các huyện: Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Châu Đức,
Long Đất, Xuyên Mộc, Cao Su, Thủ Đức, Duyên Hải.
209

21.10 Page 210

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đạo của Phân khu Bà Rịa - Long Khánh. Sau một thời gian
chịu đựng địch đánh phá ác liệt, nhiều tổn thất, phong trào
đấu tranh cách mạng Nhơn Trạch chuyển biến tích cực.
Năm 1972, Sau một thời gian chịu đựng địch đánh phá
ác liệt, nhiều tổn thất, phong trào đấu tranh cách mạng Nhơn
Trạch có những bước chuyển. Huyện ủy chỉ đạo trước mắt,
tập trung củng cố xây dựng lực lượng, giải quyết vấn đề
lương thực. Ở Nhơn Trạch, Huyện ủy thành lập Ban vận
động thanh niên do đồng chí Sáu Báu (Trưởng ban Tuyên
giáo), làm Trưởng ban, đồng chí Tư Ngà, cán bộ thanh
niên, làm Phó ban. Huyện chọn căn cứ Phước An làm nơi
tổ chức học tập quân sự chính trị cho thanh niên, hình thành
khung huấn luyện lấy tên là Đại đội 241 do đồng chí Hai
Bền làm Đội trưởng, đồng chí Tư Hồng làm Chính trị viên.
Chủ trương được triển khai kỹ xuống tận cơ sở nên chỉ
trong vòng 2 tháng đầu năm 1972, nhiều xã đã rút được
tân binh xây dựng đội du kích về bổ sung cho huyện. Xã
Mỹ Hội là hai địa phương dẫn đầu trong việc rút tân binh ở
Nhơn Trạch.
Đầu tháng 3-1972, Huyện ủy Nhơn Trạch tiếp nhận
đội đặc công thuộc Trung đoàn 16 Đoàn 429, đặc công
Miền đến hoạt động ở địa phương. Trung đội được thành
lập1 thuộc Đại đội 240 (lúc này lấy phiên hiệu X2). Sau 3
1  Đội gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Đơ (Đội trưởng), Phan Xuân Nghĩa
(chính trị viên), Nguyễn Hữu Hòa, Nguyễn Văn Vận, Long, Tình, Ly. Sau
này, bổ sung đồng chí Võ Nhất Quyết (Đại đội phó Đại đội 240 làm đội
trưởng), đồng chí Ba Thành (cán bộ xã Phú Mỹ) phụ trách hậu cần.
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
lần điều nghiên, Trung đội 3 chia thành 2 mũi tấn công kho
bom Thành Tuy Hạ, phá hủy hơn 10.000 tấn đạn pháo, gây
tiếng vang lớn và cổ vũ tinh thần tấn công địch, diệt ác phá
kềm được đẩy mạnh. Du kích Phú Hội khi tiêu diệt tên cảnh
sát và tên trung sĩ bảo an tại Cầu Sắt chỉ cách bót địch không
đầy 100m. Đến tháng 6-1972, quân dân cách mạng Nhơn
Trạch diệt hơn 100 tên địch, hàng chục tên ác ôn bị trừng trị,
bị bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị phá rã.
Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn Nhơn Trạch có 43
cuộc đấu tranh với nhiều hình thức kiểu cách rất phong phú.
Đặc biệt, cuộc mít tinh ban ngày kết hợp với vũ trang của 83
công nhân tổ chức tại lô cao su nhà thờ Phú Hội. Được sự
lãnh đạo của chi bộ, công nhân tố cáo tội ác của địch; đồng
thời đòi chủ sở phải cho công nhân tự do đi làm ăn, được
tụ họp. Trước khí thế áp đảo, chủ sở phải chấp nhận nhưng
chúng đã cho người bí mật báo về quận yêu cầu lính xuống
đàn áp. Bọn lính xuống giải tỏa lọt vào mưu kế dụ địch của
ta. Các chiến sĩ Đại đội 240 tổ chức ém trong hầm bí mật,
xông lên đánh thẳng vào đội hình địch. Lính địch bị thiệt
hại nặng. Sau đòn bất ngờ và táo bạo này, lính địch ở địa
phương lại càng hoang mang. Quần chúng, cơ sở cách mạng
nòng cốt làm công tác binh vận với gia đình binh sĩ, vận
động giải thích để họ kêu gọi người thân rời bỏ hàng ngũ.
211

22.2 Page 212

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Tháng 7-1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí
Phạm Thanh Lý, quyền Bí thư Huyện ủy1 triệu tập hội nghị,
thảo luận và xác định, phân loại địa bàn để có những đối
sách thích hợp trong việc đánh phá bình định của địch. Các
xã Phú Hội, Mỹ Hội, Long Tân và Phước Thiền xác định là
vùng trọng điểm số 1 đánh phá bình định nông thôn. Yêu
cầu đặt ra là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ
cả ban đêm và ban ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với
xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Các vùng khác
của Nhơn Trạch gồm: Vùng Đại Phước, Phú Hữu, Phước
Khánh, Phú Thạnh cần đánh phá bình định kết hợp với yêu
cầu phát động quần chúng, cơ sở binh vận trong lực lượng
phòng vệ dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa quân
cùng dân vệ để phá lỏng, phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
Các xã Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiểng
là trọng điểm thứ 2 cần sử dụng nội tuyến kết hợp với lực
lượng vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các
đoàn bình định nông thôn. Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi
có đông đồng bào miền Bắc di cư, phần lớn theo đạo Thiên
Chúa thì bố trí một số cán bộ có kinh nghiệm để vận động
người dân bung ra trồng trọt ở vùng Bàu Sen, Hang Nai.
Huyện Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn nhưng hoàn
toàn có khả năng theo tình hình của mỗi vùng để đánh phá
chương trình bình định của địch, phát động nông dân, ngư
1  Thay đồng chí Phạm Minh Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm
1971.
212

22.3 Page 213

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
dân bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá
tôm. Chú ý bố trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ nhân dân
làm ăn ở những cánh đồng rộng của huyện.
Đầu tháng 9-1972, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông
tổ chức hội nghị, quyết định những vấn đề quan trọng, trong
đó có sử dụng toàn bộ lực lượng thực hiện nhiệm vụ giành
dân lấn đất với địch trong mùa khô 1972 - 1973; giải thể các
phân khu, lập lại Khu ủy miền Đông, lập lại tỉnh Biên Hòa
và Bà Rịa - Long Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa. Quân dân cách mạng miền Nam
tiến công mạnh mẽ địch trên chiến trường làm cho chính
quyền Mỹ, chính quyền Sài Gòn vào thế bị động.
Ngày 20-10-1972, tổng thống Hoa Kỳ Ních-xơn thông
báo với đại diện chính phủ cách mạng sẽ ký kết Hiệp định
Paris1 vào ngày 31-10-1972. Trước những biến chuyển tình
hình có lợi cho cách mạng, Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ đạo phải
giữ vững những vùng đất đã giải phóng và mở rộng vùng
tranh chấp. Đảng bộ và quân dân Nhơn Trạch bước vào đợt
“Chồm lên chiếm lĩnh” chuẩn bị cho tình thế mới. Huyện ủy
Nhơn Trạch đã tăng cường cán bộ và lực lượng quyết tâm
chiếm lĩnh 7 xã 11 ấp, giải phóng 2 ấp. Các đơn vị vũ trang áp
sát các xã Phú Hội, Phú Mỹ, Long Tân, Phước Thiền, Phước
1  Nội dung của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam. Ngày 13-5-1968 được xem chính thức của Hội nghị tại Paris giữa
đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bộ trưởng Nguyễn
Xuân Thủy) và Phái đoàn Mỹ (Ha-ri-man).
213

22.4 Page 214

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Kiển, Phước Lai, Phước Thọ trên địa bàn Nhơn Trạch, Long
Thành. Mỗi xã có hàng trăm quần chúng giúp đỡ lực lượng
cách mạng đào hầm, đào công sự. Có nhiều gia đình đốn tre,
mít, đưa ván cho bộ đội làm hầm, khiêng bàn ghế ra ngoài
lộ làm chướng ngại vật. Trong các ngày cuối tháng 10-1972,
phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở Phú Hội
dâng lên mạnh mẽ. Đến giờ hành động quần chúng nổi trống
mõ phát loa kêu gọi binh sĩ khiến cho lính biệt kích đi lùng
ban đêm rút vào đồn bót. Các ấp dọc trục lộ đường 17 ở Phú
Hội, Phước Thiền, Phước Kiển do cách mạng làm chủ.
Trước khí thế nổi dậy của quần chúng, lực lượng tại
chỗ của địch không dám bung ra. Nhằm giải toả tình trạng
bị động, địch rút 2 đại đội bảo an của chi khu giải tỏa địa
bàn Phú Mỹ, Phú Hội. Yểm trợ cho bộ binh, địch dùng trực
thăng, đầm già, khu trục đánh phá kết hợp với pháo bắn bừa
bãi vào ấp Cầu Sắt, Đất Mới (Phú Mỹ), Bến Cam (Phước
Thiền), Mỹ Khoang (Phước Kiển), ấp B (Phước Lai). Từ
ngày 31-10 đến ngày 2-11-1972, địch điên cuồng tàn phá
456 nhà, trên 3000 giạ lúa, làm 6 người chết, 12 bị thương,
trên 20 mẫu vườn của người dân.
Năm 1972, chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh cường độ
chiến tranh khắp các chiến trường. Địa bàn Nhơn Trạch là
một điểm nóng hứng chịu của bom đạn của địch. Lực lượng
vũ trang cách mạng của huyện đứng chân trên địa bàn và du
kích Phú Hội hoạt động mạnh trong cao trào chống địch lấn
214

22.5 Page 215

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đất giành dân nhưng gánh chịu nhiều tổn thất. Lực lượng
biệt kích thám báo địch thường tổ chức tuần tra trên sông,
có máy bay yểm trợ quần đi quần lại nhiều địa điểm chúng
nghi ngờ lực lượng cách mạng ẩn nấp. Cán bộ, chiến sĩ, du
kích trước những lần địch tuần tra thường chọn những đám
chuối nước để ẩn nấp, lúc thì nấp trên mặt nước nhưng cũng
có những lúc phải ngụp lặn dưới nước vì máy bay địch quạt
mạnh làm ngả rạp lá chuối phía trên. Ngày 25-4-1972, chiến
sĩ Lê Văn Tiến (Đại đội 240 kiêm Xã đội trưởng Phú Hội)
công tác trên đường sông bằng ghe rơi vào ổ phục kích của
địch, bị bắn chết. Ngày 5-5-1972, anh Trần Văn Năm1 - du
kích Phú Hội dẫn đường cho bộ đội đánh địch ở miếu Dinh
Ông. Tại trận đụng độ với trung đội biệt kích thám báo của
địch do tên ác ôn Tám Tho chỉ huy, đồng chí Trần Văn Năm
và 5 chiến sĩ hy sinh. Các đồng chí Thái Minh Hóa2, Huỳnh
Văn Lớn3 hy sinh vào ngày 6-10-1972.
Trước tình hình địch tăng cường đánh phá, Đoàn 10
đặc công Rừng Sác tăng cường lực lượng tiếp cận kho đạn
Thành Tuy Hạ. Các chiến sĩ đột kích vào trong kho đặt gài
mìn và rút an toàn. Lúc 3 giờ 15 phút ngày 12-11-1972, kho
Thành Tuy Hạ nổ cháy, thiêu hủy trên 50 ngàn tấn bom đạn
1  Con của bà Trần Thị Thiệt (1924-1965), được truy tặng Bà mẹ Việt
Nam anh hùng năm 1994. Bản thân bà là liệt sĩ và 2 người con liệt sĩ.
2  Em của liệt sĩ Thái Minh Trí, con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Đặng
Thị Nghĩa (1911 - 1995).
3  Em của liệt sĩ Huỳnh Văn Tiếng, con của bà Nguyễn Thị Chánh (1919 -
1999), được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994.
215

22.6 Page 216

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
của địch. Từ thông tin của cơ sở cách mạng ở Long Tân báo
cho đồng chí Quyết, các chiến sĩ tiếp tục đột kích vào 5 dãy
kho chứa bom, gài trái vào ngày 12-1-1972. Cả 5 dãy kho
bom nổ liên tục 2 ngày. Gần 80% khu kho bom bị phá hủy,
60% tổng số bom trong kho Thành Tuy Hạ bị phá hủy. Địch
đem số bom đạn còn lại đi phá hủy vì đã bị chấn động mạnh.
Tháng 11-1972, chính quyền Mỹ không thực hiện ký
kết hiệp định như đã thông báo. Được tỉnh chỉ đạo nhằm
tránh sự phản kích của địch, Huyện ủy Nhơn Trạch điều lực
lượng giãn ra khỏi các mục tiêu, đồng thời tăng cường thế
trận toàn diện sẵn sàng đánh địch phản kích và nhanh chóng
chớp thời cơ khi tình hình cách mạng có thuận lợi, tiếp tục
đẩy mạnh công tác binh vận, hướng dẫn tổ chức cho nhân
dân bung về vườn, ruộng cũ sinh sống. Trong chiến dịch
Nguyễn Huệ năm 1972, đội dân quân du kích xã Phú Hội
liên tục tiến công địch. Trong 2 ngày cuối tháng 12-1972,
13 du kích xã Phú Hội kiên cường bám trụ bẻ gãy nhiều đợt
phản kích của địch từ Liên đội 32 bảo an, diệt 15 tên. Địch
điên cuồng dùng máy bay đến ném bom bừa bãi vào xã, hủy
diệt 132 nhà dân. Đội du kích vẫn liên tục trụ bám giữ được
thế làm chủ 2 ấp, góp phần đánh bại những nỗ lực của địch
trong kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”.
Sau đợt “Đồng Khởi năm 1972” và “Chồm lên chiếm
lĩnh” của lực lượng cách mạng, địch đã rất hoang mang lo
sợ, dao động. Nhiều lính dân vệ không dám bung ra lùng sục
216

22.7 Page 217

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hoặc đi trong sự bắt buộc, tâm lý sợ hãi. Một số dân vệ ở
Phú Hội được vận động phản chiến chống lệnh của cấp chỉ
huy, một số thì đào ngũ. Người dân Phú Hội bung về sinh
sống, làm ăn; đồng thời từng bước xây dựng thêm nhiều
cơ sở. Thế và lực lượng cách mạng Long Thành - Nhơn
Trạch đã được mở, chuẩn bị cho một giai đoạn tiến công giải
phóng quê hương.
5. Giữ thế tiến công, nổi dậy giải phóng quê hương
(1973 - 1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của cách mạng Việt Nam
giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực
trên các mặt trận. Vừa đấu tranh ngoại giao vừa giành thắng
lợi quân sự trên chiến trường, Mỹ và chính quyền Sài Gòn
lâm vào tình thế bất lợi. Chủ trương của Bộ Chính trị và
Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về
“Quyết tâm mở cuộc phản công chiến lược trên toàn miền
Nam, đánh bại cơ bản chương trình bình định nông thôn của
địch, hỗ trợ đắc lực cho cuộc hội đàm tại Hội nghị Paris”.
Đặc biệt, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, chiến dịch
Nguyễn Huệ1 của lực lượng vũ trang cách mạng đã tạo thế
uy hiếp mạnh đối với chế độ Sài Gòn. Thắng lợi của chiến
1  Chiến dịch Nguyễn Huệ do tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh, Trần Độ
làm Chính ủy. Thời gian chia làm 3 đợt: Đợt 1 (từ ngày 1-4 đến ngày 5-5-
1972), đợt 2 (từ ngày 16/5 đến ngày 10-9/1972), đợt 3 (từ ngày 1-10-1972
đến ngày 19-1-1973). Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu 13.000
lính địch (bắt 5.381), thu 282 xe quân sự, 45 khẩu pháo, hơn 6.000 súng
các loại, bắn rơi và phá hủy hơn 600 máy bay.
217

22.8 Page 218

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
dịch Nguyễn Huệ ở Đông Nam Bộ đã tiêu diệt sinh lực quân
đội Sài Gòn, giải phóng những một vùng rộng lớn ở Tây Bắc
Sài Gòn, tạo thế đứng chân cho bộ đội chủ lực, tạo điều kiện
cho nhân dân các địa phương nổi dậy đánh phá bình định.
Trước tình thế bất lợi trên chiến trường miền Nam,
thất bại trong tấn công không kích phá hoại miền Bắc và
dư luận thế giới lên án, Mỹ buộc phải thực hiện những thỏa
thuận trước đó với Việt Nam và đi đến ký kết Hiệp định
Paris. Theo tinh thần của hiệp định, ngày 27-1-1973, đúng 7
giờ sáng (giờ Hà Nội, 8 giờ sáng giờ Sài Gòn), cờ mỗi bên
cắm chỗ nào thì khu vực ấy thuộc sự kiểm soát bên đó. Với
điều khoản này, về phía chính quyền Sài Gòn và phía cách
mạng, mỗi bên tùy theo địa bàn, khu vực chiếm giữ tiến
hành cắm cờ xác định tình hình kiểm soát.
Cuộc tranh chấp diễn ra căng thẳng khắp nơi trong
toàn huyện Nhơn Trạch. Sự đan xen các khu vực, địa bàn
trước giờ thi hành khi được thực hiện cắm cờ xác định sẽ
hình thành “thế da beo” giữa chính quyền địch và cách
mạng. Thế nhưng, để giữ “thế da beo” với địa bàn rộng hơn,
cả chính quyền địch và phía cách mạng tìm cách ứng phó.
Địch điều chiến đoàn 48 thuộc sư đoàn 18 từ Biên Hòa đến
Nhơn Trạch âm mưu giành dân, cắm cờ. Máy bay của địch
thay nhau ném bom, dọn đường cho xe tăng bộ binh tràn
vào các thôn xóm giành dân, cắm cờ. Huyện ủy Nhơn Trạch
thông báo đến nhân dân, chỉ thị cho các lực lượng vũ trang
218

22.9 Page 219

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tổ chức tấn công địch. Lực lượng vũ trang huyện tổ chức
dồn địch, đánh địch, bao vây chống địch lấn chiếm, hỗ trợ
đồng bào cắm cờ, giữ đất, giữ làng. Từ quận Nhà Bè của Sài
Gòn, địch đổ quân tràn vào xã Phước Khánh, Giồng Ông
Đông và 2 tiểu đoàn từ hướng Thủ Đức địch sang kết hợp
với lính quận Nhơn Trạch, lấn ra các xã ở vùng Lòng Chảo,
vùng ven sông Đồng Môn. Nhằm giữ quận lỵ Nhơn Trạch
và Thành Tuy Hạ, Phước Khánh, Giồng Ông Đông, địch
sử dụng chiến đoàn 316, 1 đại đội biệt động quân, 1 đại đội
bảo an, 1 đại đội biệt kích thủ đô và củng cố 8 trung đội dân
vệ. Trên sông Lòng Tàu, sông Đồng Môn, địch đưa thêm về
3 Giang đoàn tuần tra liên tục. Tại ấp Phước Lương, địch
xây dựng 3 trạm ra-đa 15, 17 và 19. Với số quân được tăng
lên gấp 2 lần, địch tổ chức đánh phá bên ngoài bằng những
thủ đoạn “hàng quân tràn ngập lãnh thổ” để nhằm xóa “thế
da beo”, đẩy mạnh cường độ chiến tranh. Địch đưa Thiếu
tá Huỳnh Văn Phú (thuộc quân đội Cao Đài Tây Ninh) làm
Quận trưởng và tiến hành lập vành đai Nhơn Trạch, Quảng
Xuyên1 nhằm bảo vệ Sài Gòn.
Địa bàn Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển, Phước Lai
diễn ra cuộc tranh chấp quyết liệt giữa cách mạng và địch.
1  Quận Quảng Xuyên gồm 4 xã An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn
và Tam Thôn Hiệp, được chính quyền Sài Gòn thành lập ngày 29-1-1959,
trực thuộc tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay), trực thuộc tỉnh
Biên Hòa (Đồng Nai ngày nay), trực thuộc tỉnh Gia Định (TP.Hồ Chí Minh
ngày nay) năm 1965. Hiện nay, thuộc huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
219

22.10 Page 220

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Với số quân được tăng lên gấp 2 lần, địch tổ chức đánh phá
bên ngoài bằng những thủ đoạn “hàng quân tràn ngập lãnh
thổ” để nhằm: “Xóa thế da beo”, đẩy mạnh cường độ chiến
tranh. Những ngày giữa tháng 1-1973, địch tổ chức nhiều
đợt tấn công vào khu vực 4 xã. Có ngày chúng sử dụng tới
cả tiểu đoàn nhưng vẫn bị lực lượng cách mạng đánh bật
ra. Chiều 29-1-1973, địch cho pháo từ Long Thành, Phước
Hòa, Bến Sắn bắn trên 3.000 đạn pháo 105 li cấp tập nhiều
đợt. Tiếp theo địch cho máy bay từng đợt thả bom làm 80%
nhà cửa của nhân dân trong 4 xã bị phá hủy, 9 thường dân
bị chết, nhiều người bị thương, một số đồng bào phải bỏ nhà
chạy dạt ra đồng ruộng.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn vẫn tiến hành chính sách trong chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, không tuân thủ các điều
khoản thỏa thuận. Địch tăng cường bộ máy kìm kẹp, quân sự
hóa bộ máy hành chính các cấp. Quân lính địch tăng cường
lấn chiếm, bình định, càn quét khiến ta mất dần những lõm,
khu vực. Tháng 2-1973, tại Xóm Hố xã Phú Hội, Huyện
ủy Nhơn Trạch tiến hành tổ chức cho các đơn vị học tập
chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa về “Tập trung chỉ
đạo đánh phá bình định, phát triển phong trào làm chủ xã,
ấp trên khắp nông thôn”. Nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ
này là chống lấn chiếm, phá bình định, tăng cường công tác
chính trị, binh vận, vạch trần chính sách mỵ dân của địch.
Tên chủ tịch hội đồng xã Phú Hội phát hiện tại Xóm Hố có
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
cán bộ cách mạng họp, liền báo tin cho lính ở chi khu Bến
Sắn. Địch vội vã điều ngay Trung đội 99 thuộc tiểu đoàn
315 vây bắt. Được tin nội tuyến kịp thời, cuộc họp chuyển
đi nơi khác và Đại đội 240 cùng du kích xã Phú Hội tổ chức
phục đánh. Khoảng 9 giờ, khi lính địch vào trong xóm, đang
chia nhau lùng sục địa bàn, lực lượng cách mạng nổ súng
tấn công từ phía ngoài vào. Từ chủ động chuyển sang thế bị
động, lực lượng cách mạng diệt 9 tên, bắt 7 tên, thu 17 súng
các loại.
Phấn khởi, vui mừng trong niềm vui chung của đất
nước, ngày 31-3-1973, Huyện ủy Long Thành tổ chức mít
tinh trọng thể chào mừng thắng lợi trong ký kết Hiệp định
Paris - một thắng lợi lớn khi quân Mỹ phải rút khỏi Việt
Nam. Huyện ủy Nhơn Trạch, Long Thành đón nhận Huân
chương Giải phóng hạng Nhất của Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trao tặng. Xã Phú
Hội cùng 7 xã của huyện Long Thành, Nhơn Trạch là Phước
An, Bình Sơn, Tam An, Long Phước, Phú Hữu, Phước Thọ,
Phước Thái được đón Huân chương Giải phóng hạng Nhì.
Một sự khích lệ và cổ vũ cho quân dân Nhơn Trạch, Long
Thành tiếp tục vượt qua khó khăn, hướng đến phía trước để
hoàn thành sứ mệnh đánh đuổi kẻ thù.
Tháng 6-1973, Trung ương Cục miền Nam thực hiện
một số điều chỉnh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.
Thị xã Biên Hòa tách ra và do Trung ương Cục trực tiếp chỉ
221

23.2 Page 222

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đạo. Các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu, Thống
Nhất1, Duyên Hải2, vùng cao su Dĩ An, Tân Uyên sáp nhập
thành tỉnh Biên Hòa nông thôn3. Đầu tháng 9-1973, Quân
khu họp rút kinh nghiệm và đề ra trọng tâm trong thời kỳ
này là: “Chống lấn chiếm, cùng một lúc, phá bình định”.
Sau đó có nghị quyết 21 của trung ương cục chỉ đạo việc
phá bình định. Tỉnh Biên Hòa đã chọn Nhơn Trạch, Long
Thành làm điểm cho công tác này. Chấp hành chỉ thị của
Tỉnh ủy, Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong trào: “Tìm
diệt bình định áo đen” coi những tên này nguy hiểm như
những tên ác ôn có nhiều nợ máu. Tập trung tấn công đồn
bót, đón đánh bọn địch phục kích trên các lộ giao thông.
Bước sang năm 1974, trên địa bàn Nhơn Trạch, quân
lính địch được bổ sung, điều động, bố trí chốt chặn trên
các kho tàng, trục lộ quan trọng. Theo tỉnh lộ 19 từ ngã ba
đường ủi Phước Lai đến phía Nam cù lao Ông Còn, địch đưa
Chiến đoàn 48, thuộc Sư 18 chốt giữ vùng Xoài Minh, Vũng
Gấm, Xóm Cháy, Đồng Mu Rùa. Tiểu đoàn 315 về bãi pháo
Bến Sắn và rải quân ra nhiều địa điểm. Tiểu đoàn 349 về
1  Khu vực huyện Trảng Bom hiện nay.
2  Nay thuộc địa bàn huyện Cần Giờ, Tp.Hồ Chí Minh.
3  Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa gồm các đồng chí: Nguyễn Văn
Thông (Quyền Bí thư Tỉnh ủy); Nguyễn Hải (,Phó Bí thư Tỉnh ủy), Nguyễn
Việt Hoa (Phó Bí thư Tỉnh ủy); Nguyễn Công Hạnh (Ủy viên Thường vụ);
và các ủy viên: Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Bờ,
Huỳnh Văn Dậm, Lương Văn Tấn, Lê Quốc Bình, Út Đoàn, Nguyễn Thị
Ngọc Liên, Phạm Hòa, Lê Quân, Lưu Thị Huấn, Trần On, Nguyễn Quang
Đạo.
222

23.3 Page 223

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đóng dọc theo sông Đồng Môn. Một đại đội từ Rừng Sác về
đóng ở xã Phước Khánh. Nhằm tạo thế đánh địch, Huyện
ủy Nhơn Trạch chỉ đạo tạo thế liên vùng gồm 3 xã thành 1
vùng, có 1 Huyện ủy viên chỉ đạo trực tiếp chống bình định,
chống lấn chiếm, bảo vệ rừng. Các cuộc đấu tranh chính trị
của người dân ở Phú Hội được đẩy mạnh; đặc biệt trong dịp
chính quyền Sài Gòn tổ chức bầu cử. Khi địch yêu cầu đồng
bào bỏ phiếu cho ông Nguyễn Văn Thiệu, dân Phú Hội trả
lời: “Ông Thiệu làm tổng thống mấy năm rồi, ổng không
làm được gì, dân thì mỗi ngày mỗi khổ, hòa bình đâu không
thấy, chỉ thấy chiến tranh ngày càng ác liệt”. Khi bị bắt ép
bầu cử, người dân tìm cách phá cho lá phiếu hư hỏng, chọc
thủng hoặc gạch chéo tất cả những tên trong lá phiếu.
Tình hình trên chiến trường miền Nam nói chung, tỉnh
Biên Hòa và Nhơn Trạch, Long Thành có chuyển biến tích
cực cho phong trào đấu tranh cách mạng. Tháng 11-1974,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa họp mở rộng nhằm đánh
giá tình hình địch và ta, dự kiến xu thế phát triển tình hình
trong tỉnh và toàn Miền, trên cơ sở đó đề ra một số nhiệm
vụ cụ thể trong mùa khô trong 2 năm 1974 - 1975. Hội nghị
nhận định về thời gian tới, địch sẽ tập trung đối phó ở những
vùng tranh chấp quyết liệt, nhất là các huyện Nhơn Trạch,
Long Thành, Vĩnh Cửu. Các địa phương tiếp tục đẩy mạnh
kết hợp chặt 3 mũi: vũ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở;
mở mảng, mở vùng khi có thời cơ. Các lực lượng vũ trang
trên địa bàn tỉnh bao vây tiêu diệt một số đơn vị bảo an, dân
223

23.4 Page 224

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
vệ và bộ máy kềm kẹp ở phân chi khu, ấp, xã, bức hàng
đồn bót vùng tranh chấp, cắt đứt giao thông trên các trục
lộ 1, 15, 17, 19 và sông Lòng Tàu; khẩn trương tạo thế và
lực mới làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Huyện Nhơn Trạch tổ chức học tập, kế hoạch về chiến dịch
mùa khô. Trọng tâm của chiến dịch là đánh bại cơ bản âm
mưu bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giành quyền
làm chủ của quần chúng, xây dựng và phát triển lực lượng
vũ trang để giành ưu thế trên chiến trường. Ngày 6-12-
1974, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức lễ xuất quân, mở màn
chiến dịch thắng lợi: 9 ấp của 3 xã được giải phóng, trên 6
ngàn dân giành được quyền làm chủ. Tình thế cách mạng
đã chuyển sang một giai đoạn mới. Huyện ủy Nhơn Trạch
nhận định đây là thời cơ thuận lợi nhất để bao vây, tấn công
giặc. Lực lượng vũ trang đánh địch, hỗ trợ đồng bào trên các
mặt trận đấu tranh. Ở Phú Hội, các trận đánh địch diễn ra
và địch chống trả quyết liệt. Ngày 8-3-1974, Phan Văn Bốn1
hy sinh. Ngày 16-6-1974, du kích mật Lê Văn Tùng2 xã Phú
Hội hy sinh trên đường đi công tác.
Nhơn Trạch là một trong những địa bàn trong chiến
lược chính quyền Việt Nam Cộng hòa tăng cường binh lính
phòng thủ từ xa trong vành đai bảo vệ thủ phủ Sài Gòn.
1  Chồng của bà Nguyễn Thị Thâu (1920 - 1980), được truy tặng Bà mẹ
Việt Nam anh hùng năm 2014 và 1 người con là liệt sĩ.
2  Con của bà Trần Thị Sắc (1914-2012) được phong Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1994, có 4 người con là liệt sĩ.
224

23.5 Page 225

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Tháng 1-1975 địch đưa tiểu đoàn 58 biệt động quân, tiểu
đoàn 349 bảo an, chiến đoàn cơ giới 318 với 10 xe tăng
nhằm tái chiếm lộ 19, lộ 17. Địch đóng quân ở ngã 3 đường
ủi Phước Lai, tăng quân cho đồn Phú Hội, Long Tân, Phước
Long, Phước Thọ. Cuối tháng 1-1975, địch tổ chức 3 cuộc
càn lớn vào khu vực Lòng Chảo. Cơ quan Huyện ủy Nhơn
Trạch phải chuyển từ căn cứ Hang Nai về Xóm Hố Phú Hội
và Long Tân.
Tình hình chiến sự trên tỉnh lộ 19, 17 trở thành căng
thẳng. Trên địa bàn xã Phú Hội, một số đồng chí bị địch sát
hại. Bà Nguyễn Thị Tám1 và chồng là Thái Văn Quán là
cơ sở cách mạng, bị địch phát hiện nên chúng bắn chết vào
ngày 28-1-1975. Nguyễn Thanh Nghị2 hy sinh vào ngày 25-
1-1975.
Ngày 27-1-1975, lực lượng vũ trang cách mạng trên
địa bàn Nhơn Trạch tổ chức đánh địch. Đoàn 10 Rừng Sác
điều Đại đội 2 từ Giồng Ông Đông, Đại đội 3 từ Phú Hữu,
Tiểu đoàn 240 của tỉnh từ Phước Thái phối hợp tấn công
lính địch đang tạo vòng vây khu Lòng Chảo. Quân cách
mạng tiêu diệt 102 tên, phá hủy 5 xe tăng, một số đồn địch
bị quân cách mạng bao vây, nên chúng dùng trực thăng
tiếp tế.
1  Bà Nguyễn Thị Tám (1915 - 1975) được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 2010, bản thân là liệt sĩ và 2 người con liệt sĩ.
2  Em của liệt sĩ Nguyễn Thị Nhàn, con của bà Nguyễn Thị Thiệp (1920 -
2005), được truy tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 2014.
225

23.6 Page 226

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Trung cương Cục,
Khu ủy và Quân khu ủy miền Đông về chuẩn bị cho thời cơ
cách mạng, Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa họp quyết định:
Phát động tư tưởng tiến công giải phóng quê hương trong
toàn đảng, toàn quân, toàn dân dựa vào lực lượng 3 mũi tại
chỗ là chủ yếu và hình thành các Ban Quân quản để thành
lập Ủy ban cách mạng lâm thời sau ngày giải phóng. Địa
bàn Nhơn Trạch, Long Thành có vị trí quan trọng đặc biệt
ở hướng Đông Sài Gòn cần được tăng cường lực lượng vũ
trang, cán bộ chỉ đạo từ huyện đến cơ sở để công kích, khởi
nghĩa từng phần, khi thời cơ cho phép, kịp thời đồng loạt
tiến công, giải phóng từng mảng, từng huyện. Trên chiến
trường, những chiến thắng của quân giải phóng đã làm cho
quân nguỵ rơi vào thế bị động. Lực lượng vũ trang chủ
lực và địa phương Nhơn Trạch tấn công địch trải rộng trên
khắp địa bàn thu nhiều thắng lợi. Hàng loạt các ấp, xã được
giải phóng.
Những ngày đầu tháng 4-1975, nhiều nơi bội đội,
du kích tấn công địch và chiếm lĩnh địa bàn. Theo lộ 17,
xã Phước Thiền có 3 ấp được giải phóng, xã Phú Hội giải
phóng được hai ấp, xã Long Tân giải phóng được 3 ấp. Phú
Hội được chọn là địa bàn quan trọng chuẩn bị cho cuộc
Tổng tiến công nổi dậy trên địa bàn huyện Nhơn Trạch. Bộ
phận Quân y chuyển từ khu vực cánh đồng Cà Phê về Phú
Hội, Long Tân. Nhân dân Phú Hội tham gia tích cực trong
việc đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Trước tình thế nguy cấp của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa, được sự hỗ trợ của cố vấn Mỹ, địch xây dựng
tuyến phòng thủ Xuân Lộc (nay thuộc thành phố Long
Khánh, Đồng Nai) để bảo vệ thủ phủ Sài Gòn từ hướng
Đông. Tuyến phòng thủ Xuân Lộc được đánh giá là trọng
yếu số 1, “Bức tường thép” để ngăn sức tấn công của quân
giải phóng, nếu để “mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”. Ngày
2-4-1975, Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch tấn công Xuân
Lộc1. Từ ngày 9-4 đến ngày 21-4-1975, sau 12 ngày đêm
tấn công gay go và ác liệt, lực lượng vũ trang cùng với sự
nổi dậy của quần chúng cách mạng, tuyến phòng thủ Xuân
Lộc của chính quyền Sài Gòn bị đập tan. Quân lính địch từ
Xuân Lộc, Long Khánh tan rã, bỏ chạy hướng về Sài Gòn
qua hướng Long Thành, Nhơn Trạch nhiều trong tình cảnh
hỗn loạn.
Thời cơ giải phóng Nhơn Trạch đang có những thuận
lợi khi quân giải phóng đang “thần tốc, táo bạo, bất ngờ,
chắc thắng” mở toang những cánh cửa tiến về Sài Gòn.
Chiều ngày 20-4-1975, đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh
mặt trận phía Đông nhận điện khẩn của Đại tướng Văn Tiến
Dũng trong chỉ đạo thực hiện giải phóng Sài Gòn: “Ngày
1  Chiến dịch bắt đầu vào ngày 12-4-1975. Lực lượng vũ trang tham gia
gồm: Lực lượng tham gia chiến dịch bao gồm: Quân đoàn 4 (Sư đoàn 7 và
Sư đoàn 341); Sư đoàn 6 (Quân khu 7); Lữ đoàn Pháo phòng không 71;
hai tiểu đoàn xe tăng; các lữ đoàn: Pháo binh 24, Công binh 25, Thông
tin 26, một số tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương; cuối chiến dịch tăng
cường thêm Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325) và 1 đại đội xe tăng.
227

23.8 Page 228

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
28, 29 phải chiếm bằng được Nhơn Trạch, vị trí phía Đông
Nam Sài Gòn để đặt pháo 130 li bắn vào sân bay Tân Sơn
Nhất và các mục tiêu quân sự”. Trên tỉnh lộ 17, Tiểu đoàn
240 đánh chiếm Phước Thiền, giữ và bảo vệ cầu, hỗ trợ cho
các xã Phú Hội, Long Tân. Cơ quan Huyện ủy Nhơn Trạch
tại Xóm Hố, Phú Hội thực hiện chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo sát
sao từng bước tiến trong thời gian nổi dậy giải phóng quê
hương. Địa bàn Nhơn Trạch trong tình trạng tranh chấp ác
liệt giữa cách mạng và quân địch.
Theo hướng Nhơn Trạch, Trung đoàn 101, Trung đoàn
95 trợ chiến có 12 xe tăng hỗ trợ tiến vào lộ 17. Trung đoàn
95 theo hướng lộ 19, cắt qua Phước An, Vĩnh Thanh tham
gia bao vây, tấn công kho bom Thành Tuy Hạ. Trung đoàn
101 theo đường 17 tiến về tấn công chi khu Nhơn Trạch.
Lúc bấy giờ, Huyện ủy Nhơn Trạch lại nhận được nhiệm vụ
qua điện khẩn: “Chuẩn bị 100 ghe thuyền để đưa bộ đội qua
sông Đồng Nai. Chọn nơi đặt pháo cho Quân đoàn 2 bắn
vào Sài Gòn”. Huyện ủy Nhơn Trạch liền hội ý chớp nhoáng
và đã chọn các điểm đặt pháo: nổng nhà thờ Phú Hội, nổng
Giang Lò thuộc xã Phú Hội, đồi Bình Phú, đồi Vĩnh Tuy
thuộc xã Long Tân.
Tại Phú Hội, đội dân quân du kích xã Phú Hội với
quân số 35 đồng chí tham gia tích cực, cùng với nhân dân
và phối hợp chiến đấu với bộ đội địa phương và chủ lực tấn
công địch.
228

23.9 Page 229

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Sư
đoàn 325 của Quân đoàn 2 với mục tiêu tấn công vào chi
khu Long Thành, chi khu Nhơn Trạch và yếu khu kha hậu
cần Thành Tuy Hạ để vuột phà Cát Lái tiến vào Sài Gòn.
Trong thời gian này, Trung đoàn 101 tiến đến khu vực ấp
Bến Sắn gặp sự chống trả của địch quyết liệt. Đơn vị bao
vây và dùng pháo tấn công, diệt phá đồn, giải phóng xã
Phước Thiền. Các xã dọc theo trục lộ nối tiếp nhau vùng lên
giải phóng. Chỉ trong 1 đêm, có 219 tên lính ra trình diện,
nộp súng và 173 tên bị bắt sống. Ngày 27-4-1975, đội du
kích kết hợp 3 mũi tiến công địch ở bót dân vệ và trung tâm
cộng đồng ở xã cùng với nhân dân địa phương nổi dậy làm
chủ. Khu Cầu Sắt nơi tiếp giáp giữa Phú Hội và Long Tân,
đồng bào tập trung đông đảo. Đồng bào Phú Hội, Long Tân
hỗ trợ lực lượng pháo binh của quân đoàn 2 kéo pháo 130
li lên nổng nhà thờ, nổng Giăng Lò, nổng Bình Tuy, nổng
Vĩnh Tuy chuẩn bị trận địa pháo tấn công về mục tiêu ở Sài
Gòn. Tại xã Phú Hội, giao liên của tỉnh bắt được nội dung
điện khẩn của địch cho binh lính rút về xã Vĩnh Thanh để
về chi khu phòng thủ. Nắm được kế hoạch của địch, Huyện
ủy Nhơn Trạch chỉ đạo Tiểu đoàn 240 hành quân gấp về
Vĩnh Thanh, bao vây chặn đường rút chạy của địch. Đến 14
giờ cùng ngày 27-4-1975, lực lượng cách mạng gồm 6 xe
tăng, 8 xe bọc thép có bộ binh yểm trợ tiến về chi khu Nhơn
Trạch. Khi vừa qua khỏi địa hạt xã Long Tân, nơi tiếp giáp
với quận lỵ Nhơn Trạch, lợi dụng địa hình từ trên dốc cao,
địch tấn công và điều máy bay thả bom khiến đơn vị phải
229

23.10 Page 230

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
quay về tại Xóm Hố, xã Phú Hội. Ban Chỉ huy quyết định
đưa bộ binh lên tấn công địch và cuộc chiến diễn ra ác liệt.
Ngày 28-4-1975, thế trận vẫn còn giằng co quyết liệt
giữa các mũi tiến công của quân giải phóng và quân địch
tại các địa điểm quan trọng của huyện Nhơn Trạch. Quân
dân du kích Phú Hội phối hợp với mũi tiến công chủ lực
của quân giải phóng đánh chiếm thêm 2 đồn, 4 chốt, 1 ụ
ở ấp Đất Mới và ấp Phú Mỹ, cùng nhân dân truy lùng bọn
tàn binh địch, diệt 10 tên ác ôn, 3 bảo an, bắt sống 12 tên,
thu 13 súng các loại, nhiều đồ dùng quân sự, giải phóng
hoàn toàn xã Phú Hội. Sư đoàn 325, sau khi bàn giao Long
Thành tiếp tục tiến về tỉnh lộ 17. Chiến trường Nhơn Trạch
căng thẳng. Trung đoàn 101 bao vây quận lỵ Nhơn Trạch.
Trung đoàn 95 chưa chiếm lĩnh được mục tiêu kho bom
Thành Tuy Hạ. Hậu cần của quân đoàn chuyển về Phú Hội,
Long Tân. Hàng trăm người dân Phú Hội và các xã lân cận
tham gia công tác tiếp tế lương thực, phục vụ hậu cần cho
bộ đội. Sư đoàn 325 sau khi bàn giao địa bàn Long Thành
tiếp tục tiến về tỉnh lộ 17. Vào buổi chiều, quân cách mạng
chiếm lĩnh trận địa. Đúng bốn giờ, pháo của Quân đoàn 2
khai hỏa, cấp tập vào chi khu Nhơn Trạch, yếu khu Thành
Tuy Hạ. Lực lượng bộ binh tấn công, các chiến sĩ dùng B40,
B41 đánh phá hệ thống lô cốt phòng thủ. Xe tăng cùng bộ
binh của Quân đoàn 2 tràn lên. Trước sức tấn công mãnh liệt
của quân Giải phóng, quân lính địch từ chi khu Nhơn Trạch
tháo chạy hoảng loạn về phía Cát Lái. Ủy ban Quân quản
Nhơn Trạch được thành lập để kịp thời lãnh đạo gồm: Đồng
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
chí Phạm Văn Đạm (Ba Đạm) làm Chủ tịch, Năm Thành
(Phó Chủ tịch), các ủy viên: Trần Trọng Nhân (Tư Nhân),
Phạm Văn Duyên, Năm Hải, Sáu Dân, Sáu Báo, Nguyễn
Thị Thanh Vân, Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm.
Trong ngày 29-4-1975, xã Phú Hội được giải phóng.
Đến 11 giờ, Ủy ban Quân quản cùng cán bộ, nhân dân vào
tiếp quản quận lỵ Nhơn Trạch. Nhơn Trạch hoàn toàn giải
phóng. Từ xã Phú Hội, trận địa pháo của quân cách mạng bố
trí theo hình cánh cung ở nổng nhà thờ Phú Hội, nổng Giang
Lò, đồi Bình Phú, đồi Vĩnh Tuy chờ lệnh tấn công mục tiêu
địch. Mặt trận hướng Đông - Nam Sài Gòn được mở. Trên
đà chiến thắng, những cánh quân cách mạng từ hướng Long
Thành, Nhơn Trạch chuẩn bị tiến về cứ điểm cuối cùng,
quan trọng của chính quyền Sài Gòn.
Ngày 30-4-1975 đi vào lịch sử của dân tộc. Những
cánh quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Quân lực Việt Nam
Cộng hòa tan rã. Tổng thống Dương Văn Minh của chính
quyền Sài Gòn tuyên bố hạ vũ khí đầu hàng, bàn giao chính
quyền cho cách mạng.
Sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Sài
Gòn, quân dân xã Phú Hội cùng với nhân dân Nhơn Trạch
vui mừng lớn trước thắng lợi của cách mạng, đất nước thống
nhất sau chặng đường dài 21 năm kháng chiến đầy gian khổ.
Với vị trí của một xã có địa bàn dọc hai bên trục lộ 17 (dài
hơn 4km) nằm hoàn toàn trong vùng kìm kẹp của địch, một
bên là quận lỵ Nhơn Trạch (Phú Thạnh), một bên là Bộ Chỉ
231

24.2 Page 232

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
huy địch và bãi pháo Bến Sắn, phong trào đấu tranh cách
mạng của xã Phú Hội được duy trì trong những tình thế khó
khăn, trước nhiều thử thách. Với địa thế gắn với rừng giồng
khu Lòng Chảo, xã Phú Hội được Huyện ủy và các đơn vị
vũ trang đứng chân trong những năm tháng ác liệt của cuộc
kháng chiến. Những đóng góp sức người, sức của của xã
Phú Hội rất lớn đã góp phần làm nên chiến thắng chung
trong phong trào cách mạng. Phú Hội nằm trong vùng địch
hậu nhưng nhiều người dân là cơ sở của cách mạng. Có 3 gia
đình được đặt làm cơ sở cho Huyện ủy Nhơn Trạch, 134 bà
mẹ tham gia hội Mẹ chiến sĩ. Là một xã rất ít ruộng nhưng
nhân dân đã đóng góp cho cách mạng hàng ngàn tấn lương
thực thực phẩm, ủng hộ và đóng tiền mua công trái phiếu
tương đương 100 lượng vàng trong đợt tổng tấn công mùa
Xuân năm 1968. Quân dân Phú Hội đã góp 5.700 ngày công
để làm 500m đường địa đạo, 1200m giao thông hào, 250 ô ụ
chiến đấu, 500 hố chông đinh. Nhân dân xã tham gia chuyển
vận lương thực thực phẩm, vũ khí phục vụ tiền tuyến. Đồng
bào cùng du kích địa phương kết hợp với bộ đội chủ lực
huyện đã chiến đấu 1.250 trận từ chống địch càn quét, phá
đồn bót, phá ấp chiến lược, phá bình định, diệt ác ôn, gài
trái, bắn tỉa. Thành tích trong chiến đấu của quân dân xã
Phú Hội trong chống Mỹ: diệt 673 tên địch, loại khỏi vòng
chiến đấu 900 tên, bắt sống 55 tên, diệt 54 tên ác ôn. Xã Phú
Hội luôn phát huy các cuộc đấu tranh chính trị với 250 cuộc
đấu tranh lớn nhỏ với trên 18.000 lượt người tham gia. Lực
lượng cách mạng của xã Phú Hội được tặng thưởng 56 huân
232

24.3 Page 233

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
chương chiến sĩ hạng Nhất, 65 hạng Nhì, 74 hạng Ba, 13
Huân chương Chiến thắng, 73 Huân chương Chiến công, 39
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và nhiều huy chương, bằng
khen các cấp của chính quyền cách mạng. Đội du kích xã
Phú Hội trong kháng chiến chống Mỹ được đón nhận danh
hiệu cao quý: Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Làm nên những thắng lợi và đem lại niềm vinh dự, tự hào
trong truyền thống đấu tranh giữ nước, quân dân xã Phú Hội
đã gánh chịu nhiều gian khổ, tổn thất và hy sinh. Rất nhiều
người của xã đã chịu cảnh tra tấn, tù đày của chính quyền
Sài Gòn vì tham gia cách mạng, cho người thân “theo Việt
Cộng kháng chiến”. Nhiều du kích, chiến sĩ, cán bộ của xã
Phú Hội và cán bộ, chiến sĩ từ các địa phương khác đã tham
gia chiến đấu trong các đơn vị vũ trang khi đến đứng chân
trên chiến trường Phú Hội cũng đã hy sinh anh dũng. Xã
Phú Hội được chính quyền Sài Gòn liệt vào danh sách “xã
Việt Cộng” bởi nhiều gia đình không ngại gian khổ, hy sinh,
động viên các thế hệ nối tiếp nhau tham gia kháng chiến.
Toàn xã có 360 thanh niên tòng quân nhập ngũ, 213 thanh
niên tham gia du kích địa phương. Những hy sinh không thể
kể hết của quân dân Phú Hội đã tô thắm trang sử vẻ vang
của Nhơn Trạch, Long Thành trong sự nghiệp đấu tranh giữ
nước của Biên Hòa - Đồng Nai. Đất nước thống nhất, xã
Phú Hội bước tiếp trên con đường xây dựng đất nước.
233

24.4 Page 234

▲back to top


Chương V
THỜI KỲ XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 1994)
1. Bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ
mới (1975 - 1985)
Sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ, hy
sinh, Việt Nam thống nhất, cả nước cùng bước vào giai đoạn
mới để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Quân dân xã Phú Hội
hòa trong niềm vui chung của dân tộc, bắt tay vào quá trình
khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống, xây dựng
chế độ xã hội mới. Nhằm quản lý tốt các địa phương ở Đông
Nam Bộ vừa giải phóng, Khu ủy Miền Đông chỉ đạo các
tỉnh và huyện tiến hành thành lập các Ủy ban Quân quản
để quản lý địa bàn sau giải phóng. Tại Nhơn Trạch, Ủy ban
Quân quản huyện Nhơn Trạch thành lập gồm các đồng chí:
Phạm Văn Đạm (Chủ tịch), Năm Thành (Phó Chủ tịch). Các
ủy viên gồm: Trần Trọng Nhân, Nguyễn Thị Thanh Vân,
Phạm Văn Duyên, Sáu Báu, Năm Khôi, Năm Hải, Sáu Dân,
Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm. Tại các xã của Nhơn Trạch, Ban
Quân quản hình thành, gồm những cán bộ, đảng viên, du
kích và cơ sở cách mạng triển khai quản lý địa bàn. Một số
nhiệm vụ cấp thiết Ban Quân quản các xã thực hiện để ổn
định tình hình xã hội, chính trị và đảm bảo cho người dân
234

24.5 Page 235

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tin tưởng vào được lối cách mạng trong thời kỳ mới, trước
hết, tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam1, nhấn mạnh
đến chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc.
- Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền
cách mạng, tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục
hậu quả chiến tranh: chôn cất người chết do chiến tranh, thu
gom vũ khí, chất nổ trên địa bàn.
- Kêu gọi những quân nhân, những người tham gia vào
bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa trình diện giao nộp
vũ khí, tài liệu để hưởng chính sách khoan hồng của cách
mạng.
- Các Ban ngành của chính quyền Quân quản quan tâm
chăm lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong chiến
tranh, vận động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia
đình khó khăn.
- Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra,
canh gác, bảo vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Nhằm trang bị cho cán bộ tham gia công tác quản lý,
Ủy ban Quân quản tổ chức cho cán bộ học tập 5 nhiệm vụ
chính trong thời kỳ đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng,
củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động; Truy quét tàn binh, trấn áp những đối
tượng phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự; Đẩy mạnh
1  Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được
thành lập tháng 6-1969.
235

24.6 Page 236

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
sản xuất, khôi phục kinh tế, tổ chức lưu thông phân phối
lương thực, thực phẩm, hàng hóa; Xóa bỏ sản phẩm phi văn
hóa, đồi trụy, tập trung xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội; Đẩy mạnh tuyên truyền, củng
cố mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc. Ban Quân quản xã
Phú Hội đã góp phần quan trọng trong việc tiếp quản, quản
lý địa bàn cơ sở cho đến cuối năm 1975.
Ủy ban Quân quản huyện Nhơn Trạch điều động cán
bộ vũ trang làm nòng cốt, tổ chức xây dựng và ổn định bộ
máy chính quyền. Đồng thời, bộ phận an ninh của huyện tổ
chức các cụm an ninh liên xã (3-4 xã hình thành một cụm
an ninh), để nắm tình hình, giữ gìn trật tự. Các xã phát động
những phong trào ủng hộ cách mạng như thu gom, giao nộp
vũ khí, đạn dược, chất nổ, tham gia tăng gia khai hoang,
sản xuất, tuần tra bảo vệ địa bàn. Người dân Phú Hội hỗ trợ
cho chính quyền cách mạng trong hoạt động, các đội tháo
gỡ bom mìn trên những vùng đất bị bom đạn chiến tranh.
Trong thành quả chung của toàn huyện Long Thành những
tháng cuối năm 1975 với việc phá, gỡ 12.764 loại mìn, thu
gom 8.112 lực đạn các loại, giải phóng 37 vị trí, mở rộng
1.290.000m2.
Tháng 9-1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) đề ra nghị
quyết về nhiệm vụ chiến lược của nước ta trong tình hình
hình mới: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ
236

24.7 Page 237

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện nhiệm
vụ, cần phải: Xây dựng chính quyền cách mạng nhân dân ở
các cấp để nhanh chóng ổn định chính trị và trật tự xã hội,
ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, đủ
sức làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội; Trấn áp phản cách mạng, Xóa bỏ giai cấp tư
sản mại bản và các tàn dư của giai cấp địa chủ phong kiến;
Khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn thất nghiệp
do chế độ cũ để lại; giải quyết tốt các vấn đề lưu thông, tín
dụng, tài chính, ngân hàng, tiền tệ; Phát triển văn hóa, giáo
dục, y tế, xã hội; Tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Huyện Long Thành xác định phát triển nông nghiệp
là nhiệm vụ trọng tâm, chú trọng sản xuất lương thực nhằm
đảm bảo được đời sống nhân dân, ổn định trật tự xã hội
và làm cơ sở để xây dựng xã hội mới. Tổng kết chung của
Nhơn Trạch, Long Thành vào cuối năm 1975, nhân dân
từng bước ổn định được đời sống của người dân dù tình hình
vẫn còn những khó khăn. Tình hình phân phối nguồn lương
thực, thực phẩm trong những tháng cuối năm 1975 ở Nhơn
Trạch gặp nhiều khó khăn. Việc giao thương, buôn bán bị
đình trệ dẫn đến khan hiếm hàng hóa. Huyện thành lập cửa
hàng ở trung tâm các xã để phân phối các mặt hàng thiết
yếu theo chế độ tem phiếu. Dù hàng hóa không nhiều nhưng
đã góp phần giải quyết những nguồn hàng thiết yếu đối với
người dân.
237

24.8 Page 238

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Tại Phú Hội, thành lập điểm bán hàng phục vụ cho
nhu cầu người dân. Với phương châm trong nông nghiệp
“Thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất và mở rộng diện tích
sản xuất”, vụ mùa năm 1975, người dân Phú Hội tiếp tục
góp phần đưa tổng diện tích cấy lúa của huyện Long Thành
đạt 12.693ha ruộng, khai phá thêm 7.000ha ruộng hoang
hóa, 350ha rẫy xuống giống, khôi phục 665ha vườn trong
toàn huyện1. Trên lĩnh vực văn hóa, chính quyền cách mạng
vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới. Nhân
dân Phú Hội được tuyên truyền vận động, bài trừ mê tín,
tệ nạn xã hội. Trong tình hình chung của miền Nam, trong
tiến trình thực hiện cải tạo tư sản mại bản, quốc hữu hóa
các ngành kinh tế trọng điểm có một số hạn chế do không
sát thực tế trong định giá các nhu yếu phẩm, vật tư, nguyên
liệu thiết yếu, quan trọng cho sản xuất... đã tác động đến bộ
máy quản lý điều hành, sản xuất lúng túng, làm lưu thông
hàng hóa bị đình trệ, không đảm đương được vai trò chủ đạo
của hệ thống phân phối nên đời sống của nhân dân lâm vào
khó khăn.
Thực hiện nhiệm vụ cách mạng trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, tháng 1-1976, huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch
sáp nhập, lấy tên là huyện Long Thành. Cơ cấu hành chính
của huyện Long Thành gồm: thị trấn Long Thành, các xã
Phú Hội, Tam An, Lộc An, Long An, An Phước, An Lợi,
An Hòa, Long Tân, Long Phước, Phước Thái, Phước Tân,
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những
chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.561, 559.
238

24.9 Page 239

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Phước Thọ, Phước Nguyên, Phước Kiểng, Phước Thiền,
Phước Thọ, Phước Khánh, Phước Lai, Phước Long, Long
Hưng, Tân Hiệp, Ship, Bình Sơn, Suối Trầu, Cẩm Đường,
Bàu Cạn, Đại Phước,Vĩnh Thanh, Phú Hữu, Phú Thạnh.
Dân số toàn huyện Long Thành trên 200.000 người, có diện
tích lớn nhất tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ.
Ủy ban Quân quản huyện Long Thành bàn giao công
tác quản lý cho chính quyền địa phương. Trên cơ sở thành lập
huyện, Huyện ủy Long Thành hình thành. Đồng chí Nguyễn
Văn Thông (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử làm
Bí thư, đồng chí Phạm Thanh Lý - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện. Hoạt động của văn phòng Huyện
ủy có 25 đồng chí. Trên toàn huyện có 24 chi bộ cơ sở cấp
xã với 326 đảng viên.
Những đảng viên, cán bộ, du kích hoạt động trên địa
bàn xã Phú Hội trong kháng chiến tham gia vào bộ máy của
chính quyền cách mạng để duy trì sự ổn định địa phương.
Đồng chí Hà Xuân Lâm - Bí thư chi bộ trong thời kỳ kháng
chiến năm 1973 giữ nhiệm vụ cho đến năm 1975. Thời kỳ
từ năm 1976 đến năm 1994, tổ chức đảng cấp xã thực hiện
nhiệm kỳ 2 năm. Từ năm 1976, đồng chí Nguyễn Văn Thuận
làm Bí thư đến năm 1978. Đồng chí Hà Xuân Lâm được tín
nhiệm làm bí thư trong một giai đoạn khá dài, từ năm 1979
đến năm 1988. Nhiệm kỳ 1988 đến năm 1990, đồng chí
Trần Văn Lực làm Bí thư. Trong mỗi giai đoạn, cùng với các
đảng viên, lãnh đạo cấp ủy đã phát huy vai trò, cùng chính
quyền và đoàn thể thực hiện những nhiệm vụ theo đường lối
239

24.10 Page 240

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
của đảng, chính sách của nhà nước để xây dựng, phát triển
địa phương.
Năm 1976, người dân Phú Hội trong niềm vui chung
của đất nước, cùng người dân huyện Long Thành tham gia
bầu cử quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây là sự kiện quan trọng nên tỉnh Đồng Nai, huyện
Long Thành đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động.
Nhân dân Phú Hội trong độ tuổi quy định nô nức hưởng
ứng tham gia bỏ phiếu. Lực lượng du kích, xã đội phối hợp
nhau chặt chẽ ở các địa bàn, các điểm bỏ phiếu để bảo đảm
an ninh trong tình hình đất nước vừa thống nhất, các thế lực
phản động cách mạng tìm cách phá hoại. Góp phần trách
nhiệm và thực hiện nghĩa vụ công dân, nhân dân xã Phú Hội
tham gia trong tổng số 97% cử tri huyện Long Thành thực
hiện bầu cử.
Trên lĩnh vực kinh tế, với nhiệm vụ “Đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất lương
thực”, huyện Long Thành tiến hành chia 8 cụm phát triển
tập đoàn sản xuất và Hợp tác xã theo đặc điểm của từng địa
bàn. Xã Phú Hội cùng với xã Phước Thiền, xã Long Tân
thuộc cụm 2. Các cụm còn lại gồm:
Cụm 1: Xã Vĩnh Thanh, xã Phú Hữu (xây dựng Hợp
tác xã điểm), xã Đại Phước, xã Phú Thạnh, xã Phước Khánh
(Tập đoàn sản xuất).
- Cụm 3: Xã Phước Kiển (Hợp tác xã), xã Phước Lai,
xã Phước Long, xã Phước Thọ (Tập đoàn sản xuất).
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Cụm 4: Xã Long Phước, xã Tân Hiệp (Hợp tác xã),
xã Phước Thái, xã Tân Thành (Tập đoàn sản xuất)
- Cụm 5: Thị trấn Long Thành (Cải tạo Công thương
nghiệp), xã Long An, xã Lộc An, xã Suối Trầu, xã Cẩm
Đường (Tập đoàn sản xuất).
- Cụm 6: Xã Tam An (Hợp tác xã), xã Phước Nguyên,
xã An Lợi (Tập đoàn sản xuất)
- Cụm 7: Xã Phước Tân (Hợp tác xã), xã An Hòa, xã
Long Hưng (Tập đoàn sản xuất)
- Cụm 8: Nông trường Cao su Bình Sơn, Siph.
Trên mặt trận nông nghiệp áp dụng biện pháp kỹ thuật,
thâm canh, chọn giống mới, đầu tư phân bón, tiếp tục đẩy
mạnh khai hoang, thủy lợi... đã tạo cơ sở cho những chuyển
biến tích cực. Toàn huyện Long Thành khai hoang phục
hóa 2.000ha nâng diện tích gieo trồng cây lương thực trong
từng năm tăng lên, trong đó có sự đóng góp của người dân
Phú Hội.
Trong canh tác nông nghiệp, huyện Long Thành tiến
hành thành lập các Tập đoàn sản xuất theo cơ chế sản xuất
nông nghiệp mang tính tập thể. Xã Phú Hội thành lập những
tập đoàn sản xuất trên cơ sở gắn với các khu cư dân. Mỗi
tập đoàn sản xuất được thống kê về nguồn lực: số hộ dân,
nhân khẩu, nguồn lao động chính, diện tích đất ruộng trồng
lúa, trồng màu, vườn cây, công cụ phục vụ sản xuất (trâu,
bò, máy cày, máy xới, xe vận chuyển...). Các tập đoàn chia
241

25.2 Page 242

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thành các tổ sản xuất, cùng tăng gia sản xuất và thực hiện
nghĩa vụ thuế nông nghiệp trên sản lượng thu hoạch với nhà
nước. Cùng với hướng phát triển của huyện Long Thành
trong cải tạo nông nghiệp, xã Phú Hội cử cán bộ học tập từ
mô hình Hợp tác xã Đất Mới của xã Long Phước trong kinh
nghiệm xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản
xuất lớn để áp dụng cho địa phương.
Trong tình hình khó khăn chung về lương thực do xã
hội chưa ổn định, buôn bán đình trệ, trồng trọt chưa đem
lại hiệu quả, Long Thành từng bước thực hiện các mô hình
phân phối lưu thông để ổn định đời sống nhân dân. Mạng
lưới cửa hàng bách hóa của ngành thương nghiệp huyện
được hình thành ở các xã. Xã Phú Hội thành lập hợp tác xã,
thực hiện khâu phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa
thiết yếu đến với người dân.
Xã Phú Hội cùng các xã khác của huyện Long Thành
chú trọng bảo vệ chính quyền cách mạng thời kỳ đầu đất
nước thống nhất. Một số phần tử tham gia đi lính, làm việc
cho chế độ Sài Gòn trước đây trốn tránh, e ngại và bất mãn,
không tuân theo đường lối, chủ trương của cách mạng. Một
số tổ chức chống đối chính quyền cách mạng tìm đến các
địa điểm ở Long Thành, Nhơn Trạch móc nối. Trong hoàn
cảnh đời sống khó khăn, các tổ chức phản động tìm cách dụ
dỗ, móc nối những người bất mãn tham gia chống phá chính
quyền. Lực lượng an ninh của huyện đã tổ chức các cụm an
ninh liên xã (3-4 xã hình thành một cụm an ninh), để nắm
tình hình, bố trí chiến sĩ công an và hình thành các tổ an ninh
242

25.3 Page 243

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nhân dân xây dựng thế quốc phòng toàn dân. Tiêu biểu trên
mặt trận bảo vệ chính quyền, huyện dập tắt tổ chức phản
động mang tên “Việt Nam phục quốc”. Đây là tổ chức có
nhiều cơ sở hoạt động ở các địa phương Thành phố Hồ Chí
Minh, Vũng Tàu, Sông Bé, Đồng Nai.
Trong tình hình khó khăn chung của miền Nam sau
ngày đất nước thống nhất, huyện Nhơn Trạch thực hiện
những chủ trương của cách mạng để xây dựng cuộc sống
mới, xã hội mới, nền văn hóa mới. Các phong trào thu hút
nhiều người tham gia, những chính sách, chủ trương đúng
đắn, kịp thời góp phần ổn định đời sống của người dân.
Từ năm 1976 đến 1978 là giai đoạn cả nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân khó khăn về lương
thực. Thực hiện xóa tàn dư phong kiến, điều chỉnh ruộng
đất theo tinh thần của nhà nước để đảm bảo nhân dân lao
động có ruộng sản xuất theo tiêu chuẩn nhân khẩu, xã Phú
Hội thống kê và xác định đối tượng thu hồi đất đai, bố trí đất
sản xuất nhân dân lao động theo quy định, tiêu chí. Chính
quyền xã vận động các hộ dư đất thực hiện chủ trương cách
mạng và tinh thần “Nhường cơm sẻ áo” trong việc bàn giao,
hiến đất để tạo phân phối đất sản xuất cho hộ không có đất
canh tác. Đồng thời, chính quyền xã thực hiện thu hồi diện
tích đất của các hộ dân từ nơi khác xâm canh trên địa bàn
để phân bổ đất đai cho người dân địa phương. Xã Phú Hội
được xã Long Tân bàn giao 222ha của các hộ dân từ địa
phương này xâm canh trước đó. Trong chính sách phân chia
ruộng đất sản xuất theo hộ dân và cư trú trên địa bàn, xã Phú
243

25.4 Page 244

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Hội phối hợp với các xã liên quan tiến hành tốt và người
dân thực hiện theo chủ trương. Đây là chủ trương và chính
sách đem lại ý nghĩa thiết thực trong đảm bảo đời sống nhân
dân và tinh thần đại đoàn kết. Tình hình của đất nước gặp
nhiều khó khăn, trong đó có nhiệm vụ tham gia bảo vệ đất
nước khi Khmer Đỏ ở Campuchia tổ chức xâm lấn biên giới
phía Tây Nam đất nước. Cùng với nhân dân cả nước, những
thanh niên được gọi tham gia nghĩa vụ quân sự của xã Phú
Hội tham gia bảo vệ quê hương.
Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” trong công tác bảo vệ, trồng rừng, từ năm 1982, huyện
Long Thành giao đất hợp tác xã, tập đoàn và hộ gia đình
tham gia. Việc làm này đem lại hiệu quả với trách nhiệm của
nhà nước, nghĩa vụ và quyền lợi của tổ chức, hộ dân canh
tác. Người dân xã Phú Hội được tham gia linh hoạt trong
sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
Ngày 6-11-1978, xã Phú Hội được vinh dự đón nhận
danh hiệu cao quý từ Quốc hội và Chủ tịch nước: Đội du
kích xã Phú Hội được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân. Đây là sự ghi nhận khá sớm về những đóng
góp của nhà nước đối với địa phương trong tình hình đất
nước vừa thống nhất sau 3 năm. Trong kháng chiến chống
Mỹ, xã Phú Hội với vị trí hai bên trục lộ 17 nằm hoàn toàn
trong vùng kìm kẹp của địch (một bên là quận lỵ Nhơn
Trạch, một bên là Bộ chỉ huy và bãi pháo Bến Sắn). Nằm
trong vùng địch hậu nhưng hầu hết gia đình trong xã là cơ sở
của cách mạng. Có 3 gia đình được đặt làm cơ sở cho Huyện
244

25.5 Page 245

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
ủy Nhơn Trạch, 134 bà má tham gia hội Mẹ chiến sĩ. Quần
chúng yêu nước đã đóng góp cho cách mạng hàng ngàn tấn
lương thực thực phẩm, đóng tiền mua công trái phiếu ủng hộ
cách mạng (tính ra tương đương 100 lượng vàng trong đợt
tổng tấn công mùa xuân năm 1968). Quân dân Phú Hội góp
hàng ngàn ngày công vận chuyển lương thực, vũ khí, tiếp
tế, đào địa đạo, giao thông hào, ô ụ chiến đấu... phục vụ cho
cách mạng tấn công kẻ thù. Toàn xã có 360 thanh niên tòng
quân nhập ngũ, 213 thanh niên tham gia du kích địa phương.
Đồng bào cùng du kích địa phương kết hợp với bộ đội chủ
lực huyện đã chiến đấu 1.250 trận chống địch càn quét, phá
đồn bót, phá ấp chiến lược, phá bình định, diệt ác ôn, gài
trái bắn tỉa (diệt 673 địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên,
bắt sống 55 tên). Xã Phú Hội tổ chức 250 cuộc đấu tranh
chính trị trực diện, 18.000 lượt người tham gia. Xã được
tặng thưởng 56 Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất, 65 hạng
Nhì, 74 hạng Ba, 13 Huân chương Chiến thắng, 73 Huân
chương Chiến công, 39 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và
nhiều huy chương, bằng khen, 6 đồng chí là Dũng sĩ diệt Mỹ
Trong tình hình đất nước còn nhiều khó khăn, vinh dự này là
động lực cho quân và dân Phú Hội tiếp tục kế thừa, phát huy
truyền thống trong quyết tâm xây dựng quê hương.
Những nỗ lực của quần chúng nhân dân Phú Hội đóng
góp vào thành quả chung khi huyện Long Thành được tỉnh
công nhận cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp vào
năm 1985. Toàn huyện Long Thành có 03 hợp tác xã, 08
liên doanh tập đoàn, 319 tập đoàn sản xuất. Xã Phú Hội là
245

25.6 Page 246

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
một trong số ít của huyện Long Thành có nhà truyền thống
và các di tích ở địa phương được bảo quản tốt; trong đó có
đình Phú Mỹ, gắn liền với sự kiện nhân dân thờ Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua 3 bức hoành phi vào năm 1969. Ba bức hoành
phi được Bảo tàng Đồng Nai phục chế bảo tồn và trưng bày.
Xã Phú Hội được ngành văn hóa của tỉnh và huyện đánh
giá làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hóa của địa phương.
Trong lĩnh vực y tế, giai đoạn trước năm 1986, trạm y tế của
xã có 3 y sĩ và số giường bệnh ít ỏi, cơ sở vật chất thiếu thốn
nhiều trong tình hình khó khăn chung của toàn huyện. Dù
vậy, tại xã thành lập Ban Y tế với nhiều hoạt động nỗ lực
trong chăm sóc sức khỏe người dân. Các thầy thuốc sử dụng
phương thức chữa bệnh Đông - Tây y kết hợp, vừa điều
trị được cho bệnh nhân vừa góp phần giải quyết tình trạng
khan hiếm về nguồn thuốc chữa bệnh. Quần chúng nhân dân
được vận động, tham gia tích cực phong trào xây dựng nếp
sống mới, giữ gìn vệ sinh, phòng chống dịch bệnh tại địa
bàn cư trú. Xã Phú Hội cùng xã Phú Hữu, Phước An, Đại
Phước, Phú Khánh là những địa bàn có hoạt động y tế phát
triển mạnh của huyện Long Thành.
Trước những khó khăn chung của đất nước trong chặng
đường từ những năm đầu giải phóng đến khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận,
đoàn thể và nhân dân xã Phú Hội đã có những nỗ lực không
ngừng để xây dựng quê hương. Thực hiện chủ trương của
Đảng các cấp, chính sách của nhà nước và địa phương, xã
Phú Hội ổn định đời sống nhân dân, vượt qua những khủng
246

25.7 Page 247

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
khoảng kinh tế, góp phần trong xây dựng chế độ mới theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
2. Xây dựng và phát triển theo đường lối Đổi mới
của Đảng (1986 - 1994)
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đại hội
lần thứ VI. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra thời kỳ đổi mới
của Việt Nam. Thực trạng và những tồn tại, yếu kém trong
xây dựng, phát triển của đất nước được Đảng đánh giá, rút
ra những bài học kinh nghiệm, đề ra những quyết sách lớn
nhằm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, tiếp tục đường
lối chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới tư duy kinh tế từ
Đại hội lần thứ VI của Đảng với mục tiêu khai thác mọi tiềm
năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, phát huy
sức mạnh nhân tố con người, cải thiện đời sống nhân dân,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đổi mới,
tỉnh Đồng Nai đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh
tế giai đoạn 1986 - 1990: “Phát triển mạnh mẽ nền kinh
tế Đồng Nai theo cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý; phát
triển nông nghiệp một cách toàn diện, lấy nông nghiệp làm
mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng tâm theo hướng đi
lên xã hội chủ nghĩa. Phát huy các mũi nhọn: công nghiệp
chế biến, nông sản xuất khẩu và công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, giải quyết tích cực có hiệu quả thiết thực ba
chương trình về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và hàng xuất khẩu. Tiếp tục nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ
nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới; xây dựng cơ chế
quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế mới, phát huy quyền chủ
247

25.8 Page 248

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
động sản xuất, kinh doanh ở cơ sở, xây dựng đảng bộ vững
mạnh mọi mặt”.
Từ ngày 16 đến ngày 19-9-1986, Đại hội Đảng bộ
huyện Long Thành lần thứ IV được tổ chức, thống nhất đề
ra nhiệm vụ chung của huyện: “Tiếp tục quy hoạch lại sản
xuất, bố trí sử dụng lao động, ruộng đất phù hợp với tình
hình, đặc điểm của địa phương, với cơ cấu kinh tế nông,
công nghiệp (nông nghiệp bao gồm lâm nghiệp, ngư nghiệp)
nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, an
ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã
hội chủ nghĩa”. Những kết quả của huyện Long Thành trong
giai đoạn đầu đổi mới có tác động tích cực đến các xã trên
địa bàn. Căn cứ từ thực tế địa phương, xã Phú Hội cũng xác
định những nhiệm vụ kinh tế - xã hội để thúc đẩy phát triển
đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn mới. Khi hoạt
động ngân hàng, tín dụng của huyện Long Thành mở rộng,
xã Phú Hội có chi nhánh tín dụng đi vào hoạt động, góp
phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và tái sử dụng qua các hình
thức vay vốn cho nhân dân. Phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp được giữ vững với hình thức hợp tác xã nông nghiệp,
tập đoàn sản xuất cho đến năm 1988.
Đảng ủy xã Phú Hội tiếp tục quá trình đổi mới trong
kinh tế, tạo động lực cho đẩy mạnh sản xuất, thực hiện mục
tiêu trong kế hoạch từ năm 1988 đến năm 1990 của huyện
Long Thành: “Tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức
cán bộ, làm trong sạch nội bộ Đảng, nhà nước, làm lành
mạnh các mối quan hệ xã hội; đẩy mạnh sản xuất phát triển,
248

25.9 Page 249

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng
trên cơ sở tập trung vào ba chương trình kinh tế lớn: Lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Người
lao động được thực hiện khoán theo nghị quyết 10 của
Trung ương trong nông nghiệp, tạo điều kiện cho sản xuất
phát triển1.
Những định hướng phát triển của huyện Long Thành
sau chặng đường đổi mới được xã Phú Hội thực hiện từ đặc
điểm thực tế của địa phương, đặt cơ sở nền tảng cho chuyển
đổi cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn.
- Nông nghiệp: Tập trung khai thác tốt nhất nguồn đất
đai, lao động để phát triển toàn diện, mang tính chất sản
xuất hàng hóa ở chiều sâu, ổn định cơ cấu, diện tích cây
trồng, phát triển ngành chăn nuôi (gia súc, gia cầm, thủy
sản) trong mô hình kinh tế gia đình mang tính chất công
nghiệp, tạo hàng hóa đáp ứng nhu cầu các vùng công nghiệp
và địa phương.
- Công nghiệp: Gắn với quy hoạch các vùng, cụm dân
cư, khuyến khích các thành phần kinh tế và tập trung phát
triển công nghiệp chế biến (lương thực, nông sản) và sản
phẩm khai thác cung ứng vật liệu xây dựng tạo ra nhiều
1  Thực hiện chủ trương đổi mới về kinh tế của Đại hội VI, trên cơ sở tổng
kết thực tiễn, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số
10-NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Nghị quyết nêu rõ
quan điểm cơ bản của Đảng về quản lý nông nghiệp: Coi hợp tác xã như
đơn vị kinh tế tự quản, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán
với hợp tác xã.
249

25.10 Page 250

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
hàng hóa phục vụ sản xuất, xuất khẩu và đời sống. Đồng
thời gắn kết kế hoạch phát triển của tỉnh, các ngành công
nghiệp Trung ương và nước ngoài đầu tư trên địa bàn để
phát triển công nghiệp của huyện với quy mô nhỏ và dịch
vụ công nghiệp là chủ yếu.
- Dịch vụ: Mở rộng các ngành làm dịch vụ, phục vụ
kịp thời các yêu cầu sản xuất và đời sống. Trước hết, đảm
bảo giao thông, bưu điện, cơ khí sửa chữa, dịch vụ vật tư
nhà nước, dịch vụ cho công nghiệp tỉnh, Trung ương, nước
ngoài đầu tư trên địa bàn huyện.
Khi tái thành lập huyện năm 1994, Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch xác định mục tiêu trước mắt, trong tình hình
mới trên nhiều lĩnh vực; trong đó tập trung: “Ổn định và
phát triển kinh tế chiều sâu đối với kinh tế nông nghiệp, chú
trọng chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát
triển mở rộng sản xuất công nghiệp, phát triển nhanh, đảm
bảo phục vụ các loại hình dịch vụ trên địa bàn và dần dần
hình thành cơ cấu kinh tế mới theo định hướng phát triển”.
- Tổ chức Đảng
Năm 1991, đại hội Đảng bộ xã Phú Hội được tổ chức.
Đồng chí Trần Văn Lực được Huyện ủy Long Thành phân
công giữ chức Bí thư, đồng chí Hồ Minh Lực giữ chức Phó
Bí thư và các ủy viên: Nguyễn Hữu Nghị, Nguyễn Văn Kiệt,
Nguyễn Thanh Phong. Năm 1993, đại hội Đảng của xã Phú
Hội được tổ chức. Ban Chấp hành Đảng ủy được bầu gồm
các đồng chí: Hồ Minh Lực - Bí thư, Nguyễn Hữu Nghị -
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Phó Bí thư; và các ủy viên: Nguyễn Văn Sang, Lư Hồng
Nguyên, Hồ Văn Hồng, Hà Xuân Lâm, Nguyễn Thanh
Tuyền, Hồ Minh Phương, Huỳnh Kim Ly. Nhằm xây dựng
tổ chức đảng vững mạnh, sức chiến đấu cao và chủ động
trong lãnh đạo toàn diện địa phương, Đảng ủy xã Phú Hội
xây dựng chương trình hoạt động, quan tâm nhiệm vụ công
tác tư tưởng trong tình hình mới đối với cán bộ, đảng viên.
Các lớp bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về lý luận chính trị,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức. Đặc biệt
trong tình hình thế giới xoay chuyển với nhiều cục diện khác
nhau, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa có những chuyển
biến theo chiều hướng phức tạp, Đảng ủy quán triệt cho cán
bộ, đảng viên và tuyên truyền đến nhân dân vai trò lãnh đạo
và tin tưởng vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng.
Mỗi cán bộ, đảng viên của xã ra sức rèn luyện, bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cách mạng, gương mẫu trong cuộc sống,
tiên phong trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Từ tổ chức đảng đến bộ máy chính quyền và hệ thống
chính trị, đoàn thể tăng cường củng cố tinh thần đoàn kết
thống nhất, mối quan hệ với nhân dân. Các nghị quyết
của Đảng cấp trên được học tập và phân tích, đánh giá để
rút những bài học kinh nghiệm, vận dụng hiệu quả ở địa
phương. Ngoài những trường hợp đảng viên miễn sinh hoạt,
100% cán bộ, đảng viên đều tích cực tuân thủ, tham gia học
tập, nâng cao ý thức, trách nhiệm. Chất lượng đảng viên
được nâng cao về chất lượng qua công tác đánh giá định kỳ,
qua thi hành kỷ luật khi vi phạm kỷ luật. Ban Chấp hành
251

26.2 Page 252

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Đảng bộ nêu cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhằm
tăng cường lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ trong
công tác, chính quyền cử cán bộ học tập bồi dưỡng lý luận
chính trị (3 đồng chí học hệ trung cấp, 4 đồng chí hệ sơ cấp)
và 10 quần chúng ưu tú được học tập đối tượng đảng, tạo
nguồn trung kiên. Đảng bộ xã Phú Hội có 54 đảng viên, (02
đảng viên dự bị, 8 đảng viên miễn sinh hoạt, công tác). Năm
1994, Đảng ủy được công nhận Trong sạch vững mạnh.
- Bộ máy chính quyền
Xã Phú Hội tổ chức quá trình bầu cử hội đồng nhân
dân 3 cấp, kiện toàn bộ máy hành chính đi vào hoạt động
có nề nếp, sắp xếp cán bộ các ban ngành. Ủy ban nhân dân
chấp hành các nguyên tắc chế độ làm việc thực hiện theo
nghị quyết của Đảng bộ và hội đồng nhân dân, lắng nghe
ý kiến đóng góp của nhân dân. Cán bộ trong bộ máy chính
quyền phát huy được vai trò quản lý, điều hành. Công tác bố
trí sử dụng cán bộ được chú trọng, thực hiện đúng quy định,
phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện phát huy được năng
lực. Hoạt động của thanh tra và tư pháp ổn định, giải quyết
tốt các đơn thư tố cáo, khiếu nại trong nhân dân và phát sinh
tiêu cực ở địa phương.
- Hệ thống chính trị
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân từng bước được ổn
định, không ngừng phát huy về tổ chức, phương thức hoạt
động. Cán bộ và thành viên các đoàn thể năng nổ trong công
252

26.3 Page 253

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tác vận động quần chúng, chăm lo được quyền lợi chính
đáng của hội viên. Mặt trận phát huy vai trò, tham gia tích
cực vào công tác ở địa phương, thực hiện tốt vai trò giám
sát, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững
mạnh, là cầu nối giữa quần chúng nhân dân với Đảng bộ,
chính quyền, tạo nên sự đồng thuận cao trong các phong
trào, nhiệm vụ xây dựng địa phương. Ở địa phương, mặt
trận tổ chức hiệu quả tiến trình hiệp thương giới thiệu người
ra ứng cử hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1994 - 1999, tiếp
xúc cử tri, làm tốt vai trò liên tịch với công an trong phong
trào vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh. Hội Cựu
chiến binh của xã thành lập năm 1994, tích cực phát huy
bản chất hình ảnh bộ đội, tuyên truyền truyền thống cách
mạng, hăng hái giữ gìn an ninh trật tự ở địa bàn. Hội Liên
hiệp phụ nữ triển khai sâu rộng hoạt động tích cực trong
vận động giới nữ tham gia nhiều phong trào địa phương,
hiệu quả trong phát triển kinh tế gia đình với mô hình tiêu
biểu: xây dựng được 6 nhóm tiết kiệm, hỗ trợ phụ nữ khó
khăn vay vốn chăn nuôi. Hội Nông dân vận động tham gia
sản xuất cải tạo vườn tạp, tạo điều kiện cho nông dân tiếp
cận khoa học kỹ thuật qua các lớp tập huấn khuyến nông,
hưởng ứng, góp sức xây dựng nông thôn mới. Đoàn Thanh
niên linh hoạt và chủ động trong tập hợp đoàn viên, đem lại
hiệu quả cho thanh niên trong khởi nghiệp, tạo việc làm qua
các dự án chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, nêu cao tinh thần tự
nguyện, thi hành nghĩa vụ quân sự, bảo vệ tổ quốc. Hội Bảo
thọ, Hội Phụ lão được củng cố và hoạt động đem lại ý nghĩa
253

26.4 Page 254

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thiết thực cho hội viên trong chăm lo đời sống, khích lệ sống
vui, sống khỏe và làm gương cho giới trẻ.
- Lĩnh vực kinh tế
Thành quả chung của xã Phú Hội trong kinh tế đã
tác động nhiều mặt đến đời sống của nhân dân. Trong năm
1994, tổng thu nhập quốc dân đạt gần 8,019 tỷ đồng so với
năm 1993 (tăng gần 10%) và giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp trên địa bàn qui thóc đạt 3.695,5 tấn (tăng 8%) với
năm 1993. Thu ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm
trước, bình quân thu nhập lương thực năm 1994 là 563kg/
người/năm. Về sản xuất nông nghiệp, tổng diện tích gieo
trồng hàng năm đạt 100%; trong đó 149ha lúa, 395ha mì,
812ha cây công nghiệp, 143ha cây ăn trái. Việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng ở đất ruộng và cải tạo vườn tạp thành vườn
chuyên canh được nhân dân quan tâm thiếu vốn và kinh
nghiệm nên chỉ thực hiện được 21ha. Về chăn nuôi được
duy trì và phát triển theo hộ gia đình. Số lượng đàn gia súc,
gia cầm hàng năm được tăng lên: 248 con bò, 1.015 con
heo, vịt đàn 3590 con/vụ và 600 con vịt đẻ, 2.000 con gà.
Trong chăn nuôi, người dân được vay vốn từ ngân hàng để
phát triển; tiêu biểu, có 20 hộ thực hiện dự án nuôi bò thịt.
Trong nuôi trồng thủy sản, nhân dân chủ yếu tận dụng diện
tích mặt nước trống ở đồng ruộng để nuôi tôm cá tự nhiên
và ao vườn để nuôi cá. Trong nuôi trồng thủy sản, nhân dân
chủ yếu tận dụng diện tích mặt nước trống ở đồng ruộng
nuôi tôm cá tự nhiên, sử dụng ao vườn nuôi cá, mỗi năm thu
hoạch trên 1 tấn cá tôm.
254

26.5 Page 255

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Hệ thống đường giao thông với trục đường chính liên
xã và các đường nhỏ trong thôn, ấp. Các tuyến đường xã
quản lý được tuyên truyền, vận động người dân giữ mỹ
quan, tháo gỡ những vật cản che khuất tầm nhìn, giảm thiểu
được tai nạn. Nhân dân tham gia trong nâng cấp các tuyến
đường nội bộ xóm ấp, tu sửa, đắp đất 6.000m đường, khai
thông, nạo vét hệ thống mương rãnh để thoát nước, tránh
ngập úng, bảo vệ môi trường. Cơ sở hạ tầng của xã Phú Hội
được đầu tư từ nhiều nguồn ngân sách, của huyện và của
địa phương. Trong đó, người dân được sử dụng điện tăng so
với trước dù có nhiều khu vực chưa có lưới điện. Từ tháng
4-1994, toàn xã có 564/1.571 hộ sử dụng Cơ sở của ngành
điện ở xã hoàn thành với 17km hạ thế với tổng vốn đầu tư
2,5 tỷ (ngân sách nhà nước 1 tỷ, còn lại nhân dân đóng góp).
Nhà ở của nhân dân từng bước tăng dần về số lượng nhà bán
kiên cố, nhà xây.
Trong công tác thu ngân sách, địa phương khai thác và
thực hiện thu đầy đủ. Trong nhiệm kỳ, tổng thu ngân sách
của địa phương đạt gần 150 triệu đồng (từ nguồn thu nông
nghiệp, công thương nghiệp và nhà đất) và cung ứng đủ cho
kế hoạch hoạt động địa phương. Người dân được tiếp cận
nguồn vốn vay lãi suất thấp từ ngân hàng nhà nước trên địa
bàn để sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh. Trên địa bàn xã có
122 lượt hộ được vay gần 2,3 tỷ đồng. Nhiều hộ gia đình
làm ăn hiệu quả, góp phần nâng cao mức sống. Quản lý đất
đai của xã được triển khai, tổ chức cho người dân kê khai,
đăng ký và kiểm tra đo đạc để cấp chứng nhận quyền sử
dụng đất.
255

26.6 Page 256

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Đài truyền thanh xã được xây dựng với công suất là
600W, trang bị 12 loa phủ khắp các ấp, đảm bảo thông tin
đến người dân. Hoạt động của Đài do nhân lực của văn hóa-
xã hội đảm trách, hoạt động thường xuyên. Số buổi phát 3
lần/ngày, số giờ phát là 3 giờ/ngày, nội dung phát là tiếp âm
đài trung ương, tỉnh, huyện. Đồng thời phổ biến các chính
sách, chủ trương, pháp luật của đảng, nhà nước và thông
tin các sự kiện lớn của đất nước, thông báo liên quan của
địa phương. Trên địa bàn xã, có những dịch vụ giải trí: 4
điểm chiếu video, 3 điểm Karaoke. Đội kiểm tra văn hoá
xã thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh nội dung và thời gian
hoạt động các dịch vụ văn hóa.
Nhân dân tham gia trong các hoạt động tinh thần của
đời sống. Tiêu biểu có đội nhạc lễ thành lập phục vụ cho các
sự kiện sinh hoạt văn hóa truyền thống ở cơ sở tín ngưỡng,
phục vụ tang lễ ở các khu dân cư. Phong trào thể dục thể
thao của xã phát triển với 2 đội bóng đá, 1 đội bóng chuyền
thường xuyên tập dợt và thi đấu. Trong các giải cấp huyện,
thể thao xã tham gia nhiều bộ môn: bóng đá, bóng chuyền,
điền kinh, cờ tướng. Nhân dân hưởng ứng tập luyện thể dục
và có những mạnh thường quân đóng góp cho hoạt động của
phong trào thể thao.
Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục của địa phương
từng bước được nâng lên. Nguồn giáo viên được tuyển đủ
đáp ứng cho dạy học và đạt chất lượng qua các kỳ kiểm tra
256

26.7 Page 257

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
của ngành. Số lượng lớp học được bố trí đầy đủ, đáp ứng
cho nhu cầu dạy học bình thường hai buổi, không còn tình
trạng ca 3 trước đây. Chất lượng học sinh chuyển biến tích
cực và tăng qua đánh giá mỗi năm học, tiêu biểu số học
sinh giỏi cấp huyện tăng qua các kỳ thi tuyển chọn. Hội phụ
huynh học sinh hoạt động đúng chức năng, đảm bảo sự quan
hệ chặt chẽ giữa hội với nhà trường. Công tác xoá mù chữ
trong nhân dân thực hiện tốt và xã Phú Hội được công nhận
phổ cập xoá mù chữ.
Sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ của địa phương tạo
thuận lợi cho công tác về y tế. Các chương trình y tế cộng
đồng: chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, tiêm phòng
uốn ván sơ sinh tiêm chủng mở rộng phòng chống 6 bệnh
cho trẻ em, uống vắc xin chống bại liệt, và vitamin A chống
khô mắt, uống dầu chống bệnh bướu cổ... Người dân hưởng
ứng tích cực trong các phong trào, tuy nhiên việc vận động
người dân dùng muối iốt phòng ngừa bướu cổ chưa được
toàn diện do còn duy trì thói quen dùng muối rang. Trạm y
tế của xã xuống cấp, địa phương lên phương án xây dựng
khu vực trung tâm xã. Đội ngũ thầy thuốc của trạm được
biên chế 4 y sĩ và 1 hộ sinh. Trên địa bàn, một số hộ dân
đáp ứng những tiêu chí về y tế theo quy định đã mở những
dịch vụ trong cung ứng, bán thuốc chữa bệnh. Chương trình
dân số và kế hoạch hóa gia đình được chú trọng trong tuyên
truyền và vận động các gia đình trong độ tuổi sinh sản áp
dụng các biện pháp phòng tránh thai. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên của Phú Hội giữ ở mức tỷ lệ 1,5% trên số dân.
257

26.8 Page 258

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Chính sách xã hội được xã quan tâm, duy trì và chủ
động trong các công việc giải quyết tồn đọng sau chiến
tranh: tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, thực hiện hồ sơ về
liệt sĩ, người có công, cơ sở cách mạng và Bà mẹ Việt Nam
anh hùng. Qua những đợt phong tặng, xã có được 20 bà mẹ,
trong đó có 9 mẹ còn sống. Công tác chăm lo đối tượng
chính sách thực hiện theo quy định, kịp thời. Xã đã xây
dựng 9 nhà tình nghĩa, cấp 4 sổ tiết kiệm đối với các gia
đình chính sách. Công tác báo công lập sổ vàng truyền thống
cách mạng hoàn chỉnh với 400 hộ gia đình. Trong công tác
xoá đói giảm nghèo, qua điều tra có gần 300 hộ thuộc diện
đói nghèo. Xã xét và tạo điều kiện cho 94/94 hộ được vay
với số tiền là 101.100.000 đồng để tạo công ăn việc làm ổn
định. Ở Phú Hội, xuất hiện mô hình tổ chế biến hạt điều hoạt
động hiệu quả, góp phần giải quyết cho 100 nhân khẩu có
việc làm ổn định.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Là địa bàn gần trung tâm huyện, có trục giao thông
liên xã gắn với các khu thị đông dân cư, địa hình trải rộng
nên xã chú trọng trong quản lý địa bàn để đảm bảo tình hình
an ninh, trật tự. Lực lượng tham gia bảo vệ quốc phòng của
địa phương hoạt động tích cực. Xã xây dựng 5 đội dân quân
ở các ấp và một lực lượng thường trực tại xã, gồm 60 đồng
chí. Các đội dân quân thường xuyên tuần tra canh gác đảm
bảo được an toàn ở địa phương. Đồng thời, xã nắm chắc và
quản lý tốt quân dự bị hạng 1 đảm bảo tập trung huấn luyện
258

26.9 Page 259

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hàng năm. Trong công tác huấn luyện và diễn tập, xã tổ
chức 2 lớp học kỹ chiến thuật cho dân quân du kích, hoàn
thành đợt diễn tập kế hoạch phòng thủ năm 1994 và chuẩn
bị cho năm tiếp theo. Công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu với
12 thanh niên lên đường nhập ngũ.
Lực lượng vũ trang và công an xã được nâng cao nhận
thức tình hình chuyển biến phức tạp của thế giới, trong nước
và nắm vững các quan điểm đổi mới của Đảng trong nhiệm
vụ quốc phòng an ninh. Cán bộ, chiến sĩ quán triệt những
thủ đoạn, phương thức của thế lực phản động trong thực
hiện âm mưu “Diễn biến hoà bình”, chống phá cách mạng
để nâng cao được cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Các đơn vị
chức năng, đoàn thể của xã ký kết liên tịch với an ninh, vũ
trang trong công tác an ninh quốc phòng, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân. Trên địa bàn xã Phú Hội thành lập 100 tổ
an ninh trật tự. Nguồn cán bộ của tổ được chọn từ các cựu
chiến binh, nông dân và đoàn thanh niên được nhân dân tín
nhiệm. Quản lý nhân hộ khẩu chặt chẽ từ địa bàn tổ, ấp đến
xã. Lực lượng an ninh thực hiện tốt trong phân loại, quản
lý đối tượng vi phạm trên địa bàn. Các vụ việc vi phạm trật
tự, an toàn xã hội ở địa phương được giải quyết kịp thời
bằng các hình thức xử phạt hành chính, đưa ra công thẩm
trước dân.
Năm 1994 đánh dấu sự kiện quan trọng với việc tái
lập huyện Nhơn Trạch, tách ra từ huyện Long Thành. Xã
Phú Hội là đơn vị trực thuộc huyện Nhơn Trạch. Từ thực
259

26.10 Page 260

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tiễn hoạt động và hướng đến sự phát triển chung của huyện
Nhơn Trạch trong tình hình mới, Đảng ủy xã Phú Hội rút ra
những bài học kinh nghiệm: Cấp ủy Đảng phải hoạt động có
trách nhiệm, đều tay, đoàn kết nhất trí cao, thường xuyên cải
tiến phong cách lãnh đạo, điều hành đối với các ngành, các
cấp, không buông lỏng vai trò lãnh đạo, kiểm tra việc thực
hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc
chứ không bao biện làm thay. Ra sức nâng cao phương thức
hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị ở địa phương, biết
đoàn kết phối hợp nhịp nhàng, cùng nhau thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở địa phương đúng với chủ trương, đường lối
của Đảng, pháp luật Nhà nước. Nhận thức rõ vai trò của cán
bộ, đảng viên phải là nhân tố quyết định của một phong trào
hoạt động, thường xuyên nâng cao hiểu biết về lý luận chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim
chỉ nam trong hành động. Phải thường xuyên rèn luyện bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân thật tốt. Cấp ủy thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, tổng kết rút kinh nghiệm
kịp thời, mạnh dạn đề ra những chương trình đáp ứng được
lợi ích cho nhân dân. Đồng thời, địa phương khai thác hết
tiềm năng, phát huy truyền thống cách mạng, thực hiện tốt
phong trào vận động quần chúng nhân dân. Trên cơ sở thành
tựu đạt được, hướng đến mục tiêu chung địa phương:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện, từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nông, công thương
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nghiệp và dịch vụ trên địa bàn. Huy động tiềm năng về vốn,
kỹ thuật, lao động ở địa phương; tận dụng vốn, công nghệ,
kinh nghiệm của ngoài địa phương để xây dựng cơ sở hạ
tầng, mở rộng và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời
sống tinh thần vật chất của các tầng lớp dân cư, xóa được hộ
nghèo và đạt được những chỉ tiêu cơ bản về tăng thu nhập
quốc doanh, thu nhập bình quân, giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo cơ cấu chuyển dịch kinh
tế, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên.
- Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội.
Đẩy mạnh phong trào xã hội hoá giáo dục, hoàn thành việc
phổ cập tiểu học theo kế hoạch, tăng cường chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân, phong trào kế hoạch hoá gia đình
được duy trì tốt, phấn đấu chăm lo thật tốt cho các đối tượng
chính sách, phát triển mạnh các hoạt động văn hoá, thể thao;
đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
- Giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc
phòng. Tăng cường giáo dục tuyên truyền chính trị và pháp
luật trong nhân dân, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng
và xây dựng nền an ninh quốc phòng toàn dân, tạo ra sức
mạnh tổng hợp, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hoà
bình”, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh là
của dân, do dân và vì dân.
- Thực hiện việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức bộ máy, tăng cường bảo vệ nội
bộ Đảng. Đổi mới tư duy, phong cách và chất lượng lãnh
261

27.2 Page 262

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đạo phù hợp, củng cố, kiện toàn bộ máy hoạt động của Mặt
trận và các đoàn thể, tạo thuận lợi cho công tác vận động
quần chúng phát huy sức mạnh của toàn Đảng, nhân dân
thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển địa phương.
*
Từ năm 1976 đến năm 1994, xã Phú Hội là đơn vị hành
chính cấp xã thuộc huyện Long Thành. Xây dựng và phát
triển địa phương qua từng giai đoạn gắn với thực tiễn của xã
và định hướng chung của huyện. Từng thời kỳ, xã Phú Hội
đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những
mục tiêu trong ổn định đời sống nhân dân, giữ vững tình
hình an ninh quốc phòng, từng bước xây dựng địa phương
phát triển với đặc điểm của thuần nông chuyển dần sang
công nghiệp hóa. Cùng với các địa phương khác, xã Phú Hội
đã đóng góp chung trong thành quả của huyện Long Thành
khi hoàn thành cải tạo nông nghiệp, xây dựng được quan
hệ sản xuất mới, chung tay, đóng góp sức người, sức của
trong cuộc chiến bảo vệ biên giới, phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt,
xã Phú Hội thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ thực
tiễn của địa phương, hướng đến phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đặt cơ sở cho những bước chuyển tích cực trên
nhiều lĩnh vực. Trong những yếu tố làm nên thắng lợi, có
vai trò quan trọng của tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống
chính trị của địa phương. Từng thời kỳ, Đảng bộ xã Phú Hội
luôn phát huy được vai trò tiên phong của đảng viên, tập
262

27.3 Page 263

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thể lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu, đúc kết những kinh
nghiệm, khắc phục những hạn chế và chủ động, linh hoạt để
lãnh đạo quần chúng nhân dân phấn đấu, nỗ lực thực hiện
nhiệm vụ, hoàn thành mục tiêu. Những thành quả của giai
đoạn 1975 đến năm 1994 là cơ sở để Đảng bộ xã Phú Hội kế
thừa, xây dựng quê hương trong giai đoạn mới, khi huyện
Nhơn Trạch tái thành lập.
263

27.4 Page 264

▲back to top


Chương VI
XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN (1994 - 2010)
1. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ, kiện toàn
bộ máy chính quyền, phát huy vai trò Mặt trận, đoàn thể
thực hiện mục tiêu phát triển
Năm 1994, huyện Nhơn Trạch tái lập trên cơ sở chia
tách từ huyện Long Thành để phù hợp với tình hình, xu thế
phát triển mới sau 18 năm sáp nhập (1976 - 1994), sau 8
năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 1994).
Huyện Nhơn Trạch phía Đông giáp huyện Long Thành
(Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Nhà Bè, phía Bắc giáp
huyện Thủ Đức, phía Nam giáp huyện Cần Giờ (Thành phố
Hồ Chí Minh) và huyện Châu Thành (tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu). Tổng diện tích tự nhiên của huyện Nhơn Trạch gồm
40.146ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 17.657ha, đất
lâm nghiệp chiếm 12.023ha, đất chuyên dùng có 940ha, đất
dân cư có 1.472ha và các loại khác có 8.054ha. Tổng số dân
có 101.882 người với 17.948 hộ. Mật độ dân số 254 người/
km2. Diện tích đất nông nghiệp bình quân 1.733 m2/người.
Về cơ cấu hành chính, huyện Nhơn Trạch có các đơn vị trực
thuộc, gồm 11 xã: xã Phước Thiền, xã Phú Hội, xã Long
Tân, xã Phú Thạnh, xã Đại Phước, xã Phú Hữu, xã Phước
264

27.5 Page 265

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Khánh, xã Vĩnh Thanh, xã Phước An, xã Long Thọ, xã Hiệp
Phước1. Ngày 25-8-1994, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh
Đồng Nai chính thức tổ chức lễ bàn giao giữa hai huyện
Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 1-9-1994, huyện Nhơn
Trạch chính thức đi vào hoạt động. Xã Phú Hội bắt đầu đi
vào hoạt động trong đơn vị chủ quản thuộc huyện Nhơn
Trạch. Tổ chức đảng, bộ máy chính quyền và các đoàn thể
xã Phú Hội được tiếp tục, kế thừa của giai đoạn trước, không
có sự xáo trộn về nhân sự.
- Tổ chức Đảng
Tổ chức Đảng xã Phú Hội từ đại hội năm 1993 tiếp tục
lãnh đạo địa phương cho đến một năm sau khi tiến hành đại
hội trong tình hình mới của huyện Nhơn Trạch. Năm 1995,
đại hội Đảng bộ xã Phú Hội tổ chức. Đại hội đã bầu Ban
Chấp hành Đảng bộ xã gồm các đồng chí: Hồ Minh Lực -
Bí thư, Nguyễn Hữu Nghị - Phó Bí thư; và các ủy viên: Lư
Hồng Nguyên, Nguyễn Văn Kiệt, Nguyễn Văn Sang, Hà
Xuân Lâm, Nguyễn Thanh Tuyền, Trần Hai, Trần Văn Cầm.
Đảng bộ xã Phú Hội nhiệm kỳ 1995 - 2000 xác định mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội: “Đẩy mạnh việc phát triển
kinh tế toàn diện, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
địa phương theo hướng nông nghiệp, công thương nghiệp
và dịch vụ; Huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, lao
động ở địa phương. Gắn phát triển kinh tế xây dựng kết cấu
1  Nghị định số 51 - CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ngày 23-6-1994 về việc điều chỉnh địa giới huyện, xã thuộc tỉnh
Đồng Nai.
265

27.6 Page 266

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
hạ tầng về văn hóa - xã hội; Giữ vững ổn định chính trị,
củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh. Tiếp tục thực hiện đổi mới và chỉnh
đốn Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và tăng cường
bảo vệ nội bộ Đảng”1.
Đây là giai đoạn đất nước chịu tác động, ảnh hưởng
nhiều từ tình hình thế giới với sự biến động của thế giới, sự
phân rã các nước trong khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu, tình
hình khủng hoảng kinh tế châu Á. Vì vậy, trong xây dựng
đảng, Đảng ủy xã Phú Hội chú trọng về công tác tư tưởng
trong tình hình mới theo nghị quyết 27 của Tỉnh ủy đối với
đảng viên, cán bộ: nâng cao về lý luận chính trị, quan điểm
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm “tiếp tục thực
hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mặt chính trị, tư tưởng,
tổ chức và tăng cường bảo vệ nội bộ Đảng”. Đảng viên tham
gia học tập, quán triệt nghị quyết các cấp ủy đạt 90%. Mỗi
đảng viên ra sức rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức
cách mạng, kiến định lập trường, không mơ hồ, dao động
trước luận điệu sai trái, gương mẫu trong lối sống và thực
thi nhiệm vụ. Đảng bộ xã tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng bộ và chính quyền,
nhân dân. Đội ngũ đảng viên được kiện toàn và phát triển.
Công tác kiểm tra trong tổ chức đảng được duy trì, góp phần
nâng cao tính tự giác của điều hành các chi bộ, của từng
đảng viên. Sinh hoạt của Đảng bộ và các chi bộ trực thuộc
duy trì theo quy định, kịp thời phản ánh những vướng mắc,
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ II, nhiệm kỳ 1995 - 2000.
266

27.7 Page 267

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hạn chế để tìm hướng khắc phục, giải quyết. Từ nguồn đối
tượng trung kiên, trong nhiệm kỳ, kết nạp 23 đồng chí nâng
tổng số đảng viên của Đảng bộ có 66 đảng viên (14 nữ, 52
nam, 8 dự bị, 10 miễn sinh hoạt và công tác). Hàng năm,
thực hiện phân tích, đánh giá tổ chức và đảng viên khách
quan: Đảng bộ và chi bộ trực thuộc đạt mức Trong sạch
vững mạnh 5 năm liền, không có đảng viên không hoàn
thành nhiệm vụ1.
Tháng 6-2000, đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ III
tổ chức. Ban Chấp hành Đảng bộ được bầu gồm các đồng
chí: Hồ Minh Lực - Bí thư, Nguyễn Hữu Nghị - Phó Bí thư;
Các ủy viên: Đỗ Đình Lũy, Nguyễn Thị Tơn, Huỳnh Kim
Ly, Hồ Minh Phương, Lê Thị Bảy.
Từ thực tiễn địa phương và định hướng phát triển
huyện Nhơn Trạch thành thành phố công nghiệp, phương
hướng và mục tiêu được Đảng bộ xã Phú Hội đề ra trong
giai đoạn 2001 - 2005: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn
diện, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Huy động
mọi tiềm năng sẵn có về tài nguyên, vốn, kỹ thuật, lao động
ở địa phương để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển
kinh tế nông thôn nhằm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Gắn tăng
trưởng kinh tế với việc phát triển văn hóa xã hội, nâng cao
1  Trong nhiệm kỳ 1995 - 2000, Đảng bộ có 1 đảng viên chuyển sinh hoạt
địa phương khác, tiếp nhận 2 đảng viên chuyển đến, 3 đảng viên qua đời.
Qua công tác kiểm tra, đề nghị và xóa tên 1 đảng viên khỏi danh sách của
Đảng bộ xã.
267

27.8 Page 268

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
mặt bằng dân trí, tăng cường chăm sóc sức khỏe nhân dân,
làm tốt vấn đề vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới.
Ổn định và nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của nhân
dân, nhất là các gia đình chính sách; Tạo việc làm cho lao
động, làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo. Phát triển mạnh
các hoạt động văn hóa, thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đẩy lùi có
hiệu quả các tệ nạn xã hội, giữ vững ổn định chính trị trên
địa bàn. Xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững
mạnh, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tăng cường
công tác an ninh - quốc phòng, kiên quyết làm thất bại mọi
âm mưu ‘diễn biến hòa bình’, ‘bạo loạn lật đổ’ của các thế
lực thù địch. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng đổi
mới và chỉnh đốn đảng về nhận thức, tư tưởng, chính trị; về
đạo đức, lối sống và nâng cao năng lực của toàn Đảng bộ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra. Đổi mới phương
thức công tác dân vận, vận động quần chúng trong tình hình
mới, nhằm động viên sức mạnh toàn Đảng, toàn dân ở địa
phương thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra”1.
Ban Chấp hành Đảng bộ xây dựng quy chế hoạt động,
xác định rõ vai trò chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ làm
việc trong cả hệ thống chính trị. Từng cấp ủy viên đều phát
huy vai trò trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu, ý thức
chấp hành, nề nếp sinh hoạt học tập... Nghị quyết, chỉ thị,
chính sách, pháp luật của đảng nhà nước được cán bộ đảng
viên thực hiện nghiêm túc, tuyên truyền rộng rãi đến quần
chúng nhân dân. Số lượng đảng viên tham gia học tập đạt
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ III, nhiệm kỳ 2000 - 2005.
268

27.9 Page 269

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
98%, cán bộ chủ chốt đạt trên 95%, nhân dân trên 70%.
Đảng bộ nắm bắt kịp thời mọi diễn biến tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân, có biện pháp giải quyết
hiệu quả. Chất lượng cán bộ, đảng viên, nề nếp sinh hoạt các
chi bộ được nâng lên rõ rệt. Mô hình Đảng bộ xã lãnh đạo
công tác khoa giáo đạt nhiều kết quả trên các lĩnh vực. Công
tác xây dựng Đảng đạt kết quả cao. Mỗi lần đại hội chi bộ,
cấp ủy mới đều có trình độ, năng lực, có nhiều kinh nghiệm,
sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
các phong trào ở địa bàn dân cư.
Trong nhiệm kỳ, tổ chức đảng xét và phân công 6 đồng
chí bồi dưỡng trung cấp chính trị, 1 đồng chí học cao cấp
chính trị, 100 lượt cán bộ, đảng viên tham gia các khóa học
bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. Có 28 cá nhân
trong quá trình công tác, phấn đấu, được xem xét hồ sơ,
trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị để bồi dưỡng, tạo
nguồn đoàn viên trung kiên, dự bị cho kết nạp đảng. Từ
nguồn trung kiên, đã kết nạp 20 đảng viên mới, trong đó có
9 đồng chí từ nguồn thi hành nghĩa vụ quân sự. Đảng bộ xã
Phú Hội đã tiếp nhận 44 đảng viên cư trú trên địa bàn, chiếm
60,27% so với đảng viên địa phương, đảng viên cư trú ở ấp
nào gắn bó với chi bộ ấp đó và tham gia sinh hoạt khi cần
thiết, hoàn thành tốt nghĩa vụ. Mỗi năm, định kỳ 6 tháng đầu
năm và cuối năm 100% đảng viên tự viết bảng đăng ký đảng
viên chấp hành. Chất lượng mỗi đảng viên được nâng lên.
Trong nhiệm kỳ qua, có 02 đảng viên bị kỷ luật: 1 cảnh cáo
và 1 xóa tên. Đến năm 2005, Đảng bộ có 6 chi bộ trực thuộc,
269

27.10 Page 270

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
74 đảng viên, trong đó đảng viên nữ 24 đồng chí, đảng viên
miễn công tác, miễn sinh hoạt 14 đồng chí, số đảng viên còn
lại đều được phân công nhiệm vụ. Chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng và đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ và hoàn thành
nhiệm vụ đạt trên 80%, các Chi bộ trực thuộc và Đảng bộ
đều đạt trong sạch vững mạnh.
Tháng 7-2005, đại hội lần thứ IV Đảng bộ xã Phú
Hội tổ chức. Ban Chấp hành Đảng bộ xã được bầu gồm
các đồng chí: Nguyễn Hữu Nghị - giữ chức Bí thư, Nguyễn
Quang Vinh - Phó Bí thư; các ủy viên: Châu Thanh Phong,
Nguyễn Thị Tơn, Lê Minh Thông, Nguyễn Văn Hải, Hồ
Minh Phương, Hoàng Thanh, Lê Thị Bảy, Vũ Thị Mạch.
Đến tháng 11-2005, đồng chí Nguyễn Quang Vinh giữ chức
Bí thư.
Đảng bộ xã Phú Hội xác định phương hướng của
nhiệm kỳ 2005 đến năm 2010 của địa phương: “Đẩy mạnh
phát triển kinh tế toàn diện, chuyển dịch nhanh cơ cấu theo
hướng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại, dịch
vụ - nông nghiệp. Huy động mọi tiềm năng về tài nguyên,
vốn, kỹ thuật, lao động địa phương để xây dựng kết cấu hạ
tầng và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn. Gắn tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa xã hội, nâng cao dân trí, giải quyết việc
làm, tập trung xóa đói giảm nghèo, phòng chống dịch bệnh,
chăm lo sức khỏe nhân dân, đời sống các gia đình chính
sách. Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, tập trung đẩy
lùi các tệ nạn xã hội, thực hiện qua phong trào “Toàn dân
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”. Xây dựng
hệ thống mạnh về tổ chức, vững về chính trị, đa dạng hóa
trong lãnh đạo, chỉ đạo các phong trào. Đổi mới phương
thức vận động quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chính sách
về tôn giáo, dân tộc, phát động mạnh mẽ phong trào thi đua
yêu nước. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững
an ninh - quốc phòng, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu
“diễn biến hòa bình”,“bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù
địch. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, nhất là về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
năng lực lãnh đạo toàn diện”1.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đảng viên
được quan tâm xuyên suốt với sự tham gia học tập nghị
quyết đạt tỷ lệ 100%. Cuộc vận động “ Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” góp phần quan trọng
đối với nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn
khởi, hưởng ứng tham gia. Qua đó, cán bộ, đảng viên ở địa
phương nâng cao tinh thần trách nhiệm, trau dồi đạo đức
cách mạng, tu dưỡng, tự rèn luyện bản thân. Ở địa phương,
có 23 gương điển hình được biểu dương, tạo sự lan tỏa về
“học tập, làm theo” được phản ánh trong lối sống, công việc.
Đảng ủy thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình. Từng cấp ủy viên phát huy vai trò trách
nhiệm, tính tiên phong gương mẫu. Công tác xây dựng và
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 2005 - 2010.
271

28.2 Page 272

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
chỉnh đốn Đảng được duy trì, hệ thống chính trị phấn đấu
trong sạch vững mạnh. Trong qui hoạch, bồi dưỡng, đào tạo,
bố trí, sử dụng cán bộ được quan tâm, chủ động theo từng
giai đoạn có sự kế thừa từ giai đoạn 2005 đến năm 2010 và
đặt cơ sở cho giai đoạn 2010 - 2015. Căn cứ nhiệm vụ, trình
độ và nguồn quy hoạch, nhiều lượt cán bộ, đảng viên được
tạo điều kiện bồi dưỡng chính trị từ đối tượng trung kiên, sơ
cấp, trung cấp và cao cấp cũng như nâng cao chuyên môn
bậc trình độ đại học, nghiệp vụ phù hợp. Công tác kiểm tra
luôn bám sát các chương trình hành động của Đảng bộ và
qui định của Đảng cấp trên. Theo định kỳ tất cả đảng viên
đều viết bản đăng ký đảng viên chấp hành và phấn đấu để
chất lượng mỗi đảng viên được nâng lên. Trong nhiệm kỳ
qua có 1 trường hợp đảng viên bị kỷ luật cảnh cáo. Phát
triển 27 đảng viên mới, xây dựng nguồn trung kiên 24 đồng
chí. Toàn Đảng bộ có 84 đảng viên. Hàng năm, phân tích
chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. 10% đảng viên
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 80% đảng viên hoàn thành
tốt nhiệm vụ; 10% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Đảng bộ
và chi bộ trực thuộc đều đạt Trong sạch vững mạnh.
- Bộ máy chính quyền
Tổ chức hội đồng nhân dân của xã Phú Hội kế thừa
giai đoạn trước và hoạt động với nhiệm kỳ đến năm 1999.
Hội đồng nhân dân thực hiện tốt vai trò, chức năng, tiếp xúc
cử tri định kỳ, nắm bắt nguyện vọng, phản ánh của người
dân và thảo luận, ra nghị quyết kịp thời trong phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương. Ủy ban nhân dân kiện toàn bộ máy,
272

28.3 Page 273

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đi vào hoạt động nề nếp. Nguồn nhân sự của chính quyền
được quan tâm đào tạo, bổ sung, bố trí theo vị trí việc làm
đảm bảo về số lượng, chất lượng. Quản lý, điều hành của
chính quyền theo quy định nhà nước, thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở. Sự nỗ lực trong hoạt động của bộ máy nhà nước
đem lại kết quả, được tặng cờ thi đua xuất sắc trong 5 năm
liền của tỉnh và bằng khen của chính phủ năm 1999. Trong
công tác cán bộ, nguồn quy hoạch chú trọng đến độ tuổi trẻ,
có ý thức trách nhiệm cao, đáp ứng các tiêu chuẩn về chính
trị, chuyên môn. Trước tình hình mới, cán bộ của xã được
tăng cường bồi dưỡng, tập huấn về chính trị (18 lượt cán
bộ tham gia), chuyên môn (5 cán bộ). Từ xã đến ấp, cơ cấu
nhân sự trong hoạt động củng cố.
Giai đoạn từ năm 2000 trở đi, chính quyền xã Phú Hội
ngày càng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Hội đồng
nhân dân nhiệm kỳ 1999 - 2004 tiếp tục thực hiện tốt chức
năng, vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Công tác tổ chức cho cử tri tiếp xúc với đại biểu quốc hội,
hội đồng nhân dân các cấp được duy trì định kỳ. Thông
qua các kỳ họp đã ban hành nghị quyết đều đúng trình tự,
thẩm quyền, phù hợp với nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Sau bầu cử hội đồng nhân dân xã Phú Hội khóa IX, bộ máy
chính quyền xã kiện toàn, đa số có trình độ năng lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác quản lý có nhiều đổi
mới, nhất là cải cách thủ tục hành chính, thực hiện quy chế
một cửa, tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý, điều hành.
273

28.4 Page 274

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Ủy ban nhân dân xã thực hiện có hiệu quả các nghị quyết
của đảng, nhà nước các cấp và thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội đề ra. Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 - 2011
thực hiện tốt chức năng, vai trò với các hoạt động định kỳ
và chủ động trong tổ chức tiếp xúc, lấy ý kiến đóng góp của
nhân dân qua cử tri tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp. Phú Hội là địa phương thành lập Ban
Hội đồng nhân dân xã thí điểm. Vai trò hội đồng phát huy
trong công tác kiểm tra, giám sát và thẩm tra các hoạt động
của chính quyền. Các kỳ họp, ban hành các nghị quyết đều
đúng trình tự, thẩm quyền, phù hợp với nhiệm vụ chính trị
ở địa phương. Bộ máy hành chính thuộc Ủy ban nhân dân
xã được sắp xếp, ổn định về tổ chức, đủ về số lượng, đảm
bảo chất lượng, có kinh nghiệm, trình độ thực thi nhiệm vụ
được giao. Công tác quản lý, điều hành có nhiều đổi mới,
nhất là công tác cải cách các thủ tục hành chính, thực hiện
cơ chế “một cửa” và “Một cửa liên thông”. Ủy ban nhân
dân thể hiện tốt vai trò cơ quan chấp hành, thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết của Đảng ủy, hội đồng nhân dân xã, tạo
mối quan hệ phối hợp với mặt trận, đoàn thể trong thực hiện
mục tiêu của địa phương. Pháp luật được tuyên truyền rộng
rãi qua nhiều hình thức đa dạng. Cơ quan chức năng tiếp
nhận, xử lý 96 đơn về tranh chấp đất đai, hôn nhân gia đình
và các tranh chấp dân sự khác. Xã đã hòa giải thành 31 đơn,
chuyển về trên 25 đơn, ra thông báo trả lời 12 đơn khiếu nại
không đúng nội dung, và có 16 trường hợp rút đơn.
274

28.5 Page 275

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
- Hệ thống chính trị
Từ năm 1994, mặt trận và các đoàn thể nhân dân của
xã được ổn định, không ngừng phát huy tập hợp hội viên.
Các đoàn thể trở thành chiếc cầu nối quan trọng trong vận
động quần chúng với tổ chức đảng, nhà nước, tăng cường
khối đại đoàn kết trong các phong trào, nhiệm vụ xây dựng,
phát triển của xã Phú Hội. Mặt trận xã với vai trò quan trọng
trong hiệp thương, tổ chức lấy ý kiến nhân dân trên nhiều
lĩnh vực, góp ý xây dựng đảng và vận động nhân dân thực
hiện các quy chế dân chủ, hương ước ở địa bàn cơ sở. Ở địa
bàn các ấp, tổ chức mặt trận đi sâu, gắn với dân, nắm bắt
nguyện vọng kịp thời. Hàng năm, mặt trận xã luôn đạt vững
mạnh. Hội Phụ nữ tập hợp đông đảo hội viên, thực hiện
những chương trình, phong trào thiết thực. Hội viên và hộ
gia đình được tạo điều kiện, cùng hỗ trợ, giúp nhau làm kinh
tế, vượt khó. Phương thức hoạt động của hội chủ động và
linh hoạt, đem lại hiệu quả cao trong các tổ tiết kiệm, giúp
vốn sản xuất, vần đổi công và chăm lo sức khỏe bà mẹ và
trẻ em. Tổng số hội viên phụ nữ gồm 1.678 người, đạt 75%
tổng số phụ nữ trong độ tuổi tham gia. Hội Nông dân có
1.059 hội viên/1.469 hộ. Tổ chức và nhân sự của hội Nông
dân ổn định. Hội nông dân góp phần tích cực trong phong
trào Nông dân sản xuất giỏi, phối hợp với các cơ quan, đơn
vị trong tập huấn, tuyên truyền, phổ biến “khuyến nông”,
“khuyến lâm”, bảo vệ thực vật, áp dụng khoa học kỹ thuật
trong trồng trọt, chăn nuôi... Nhiều hộ nông dân ổn định đời
sống, thoát nghèo. Hội Cựu chiến binh có 69 hội viên và
275

28.6 Page 276

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tiếp tục rà soát những quân nhân trên địa bàn xuất ngũ để
tập hợp. Với truyền thống học tập, trui rèn trong quân ngũ,
các hội viên nêu gương phẩm chất bộ đội, tuyên truyền về
đường lối, vận động tuyên truyền cho lớp trẻ về tinh thần
cách mạng, trách nhiệm nghĩa vụ với đất nước, quê hương.
Đoàn Thanh niên của xã Phú Hội có 129 đoàn viên. Hội Liên
hiệp thanh niên có 346 hội viên. Tổ chức Đoàn, Hội thanh
niên tham gia tích cực trong các công tác của địa phương,
vừa thể hiện tinh thần trách nhiệm, sức trẻ trong các phong
trào thanh niên khởi nghiệp, lập thân, phòng chống tệ nạn xã
hội, vui khỏe xây dựng quê hương và là nguồn ưu tú trung
kiên để phát triển đảng. Hội Chữ thập đỏ có mạng lưới đến
ấp với nhiều hoạt động đa dạng, thiết thực: vận động nguồn
quỹ làm nhà tình thương, công tác thiện nguyện, trợ tang,
giúp đỡ gia đình nghèo, neo đơn... Những hoạt động của hội
gắn kết người dân trong từng khu dân cư “Tình làng nghĩa
xóm”, chung tay xây dựng văn hóa khu dân cư, xây dựng
nông thôn mới.
Năm 2000, Khối vận được thành lập vào cuối năm
2000, có 13 thành viên. Quá trình hoạt động thể hiện tốt vai
trò tham mưu giúp Ban Chấp hành Đảng bộ lãnh đạo, chỉ
đạo có hiệu quả công tác vận động quần chúng, công tác
tôn giáo, dân tộc trên địa bàn. Mặt trận, đoàn thể từ xã đến
các ấp ổn định, hoạt động hiệu quả, nắm bắt kịp thời về tư
tưởng, tình cảm và nguyện vọng, vấn đề bức xúc của nhân
dân và đề xuất biện pháp giải quyết, xây dựng tốt niềm tin
giữa đảng, chính quyền với nhân dân.
276

28.7 Page 277

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Năm 2002, đại hội Mặt trận xã tổ chức đại hội và bầu
cử ủy ban gồm 25 thành viên. Ban công tác mặt trận các
ấp đều hoạt động tốt. Hàng năm, có trên 70% tổ nhân dân,
ban công tác mặt trận cơ sở đạt khá đến vững mạnh. Công
tác mặt trận của xã đạt những kết quả thiết thực. Mặt trận
đóng vai trò nòng cốt trong triển khai nội dung cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư; trọng tâm là xây dựng ấp văn hóa, vì người nghèo,
thi đua yêu nước, tích cực phát triển sản xuất, ổn định cuộc
sống, tham gia giải quyết có hiệu quả công tác xóa đói giảm
nghèo. Quy chế dân chủ triển khai sâu rộng, quyền làm chủ
của nhân dân được phát huy. Các phong trào xã hội hóa
được nhân dân hưởng ứng, đóng góp tích cực, xây dựng
nhiều công trình phúc lợi.
Các đoàn thể của xã với nhiều hình thức vận động,
phương thức làm việc đem lại ích lợi thiết thực. Tiêu biểu
là Hội Phụ nữ xây dựng 36 tổ hội, 4/4 chi hội ấp, tổng số
hội viên 1.954/2.783 (tỷ lệ tập hợp đạt 70,21%). Hội đã tổ
chức học tập được 597 cuộc có 18.597 lượt phụ nữ tham
dự. Phong trào Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình
thông qua 24 tổ tiết kiệm (556 thành viên), các dự án đạt
nhiều kết quả với số vốn vay qua các lượt vay trên 1 tỷ đồng.
Có 337 lượt hội viên giúp cho 843 các gia đình phụ nữ khó
khăn nguồn vốn 273 triệu đồng, 167 chỉ vàng, 2.784 con
giống các loại không tính lãi để vượt khó, tổ chức vần đổi
3.047 ngày công lao động. Hội Nông dân có 1.911/2.717
(tỷ lệ tập hợp 70,33%), tuyên truyền, vận động nông dân
học tập, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất...
277

28.8 Page 278

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với
điều kiện môi trường địa phương. Hội Cựu chiến binh có
62/63 hội viên (tỷ lệ tập hợp là 98,4%). Các chi hội và hội
cơ sở hoạt động đạt khá đến vững mạnh, đi đầu tuyên truyền
giáo dục truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng cho
giới trẻ. Hội hỗ trợ các hội viên nêu cao phẩm chất bộ đội,
khắc phục khó khăn, gương mẫu trong các phong trào xây
dựng địa phương. Hội chữ thập đỏ có có 327 hội viên, hoạt
động tích cực công tác vận động cứu trợ xã hội, nhân đạo từ
thiện, vận động hiệu quả quỹ “Vì người nghèo” hỗ trợ thiết
thực nhà tình thương, khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí,
tặng quà các dịp lễ, tết cho hoàn cảnh khó khăn. Hội Người
cao tuổi có 771/843 cụ, (tỷ lệ 91,45%), có nhiều hoạt động
ý nghĩa: sống vui, sống khỏe, sống có ích. Các phong trào
được phát động đem lại ích lợi trong xã hội: Ông bà cha mẹ
mẫu mực, con cháu hiếu thảo ngoan hiền, Tuổi cao chí càng
cao nêu gương sáng vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tập luyện
thể dục thể thao...
Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên có nhiều đổi mới về
nội dung và phương thức. Công tác giáo dục truyền thống,
giáo dục chính trị tư tưởng, những bài học chính trị của đoàn
và tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai đến đoàn viên,
thanh niên. Các phong trào đạt nhiều kết quả như: Thanh
niên lập nghiệp, vận động tuổi trẻ học nghề, thực hiện công
trình thanh niên, tu sửa đường giao thông nông thôn. Có
100% đoàn viên, thanh niên tham gia phong trào xây dựng
đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, tích cực bài trừ các tệ nạn
278

28.9 Page 279

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
xã hội. Tập hợp lực lượng của Đoàn, Hội Liên hiệp thanh
niên có những khó khăn do kết nạp được nhiều nhưng nhiều
yếu tố, số lượng chuyển đi cũng khá lớn (phát triển được
272 đoàn viên mới, chuyển đi 106, chuyển đến 76, xóa tên
96). Tổng số đoàn viên hiện nay có 257/1.105 thanh niên và
Hội Liên hiệp thanh niên có 597/2.673. Tổ chức Đoàn xã
tạo nguồn 13 cá nhân ưu tú và được kết nạp 7 đồng chí đứng
vào hàng ngũ của Đảng.
Từ năm 2005 trở đi, công tác Mặt trận đạt được nhiều
kết quả thiết thực trong hiệp thương và bầu cử trưởng ban
nhân dân 4 ấp, giám sát tốt các công trình xây dựng cơ bản
và công trình phúc lợi cộng đồng từ nguồn xã hội hóa. Trong
năm 2008, đại hội mặt trận xã được tổ chức và thành lập các
ban công tác mặt trận hoạt động tích cực. Hàng năm, có trên
70% tổ nhân dân, ban công tác mặt trận ấp đạt khá đến vững
mạnh. Các đoàn hội chính trị hoạt động hiệu quả trong công
tác tập hợp hội viên, đóng góp trong từng lĩnh vực mục tiêu
chung trong xây dựng kinh tế - xã hội của xã Phú Hội. Hội
Liên hiệp phụ nữ thực hiện 5 chương trình trọng tâm, trong
đó chú trọng vận động phong trào phụ nữ giúp nhau phát
triển kinh tế gia đình thông qua các tổ, nhóm tiết kiệm. Cuộc
vận động phụ nữ “ Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”1
được nhiều hội viên hưởng ứng, góp phần trong xây dựng
1  Nội dung: 5 không (Không đói nghèo, không có người thân vi phạm
pháp luật và tệ nạn xã hội, không có bạo lực gia đình, không vi phạm chính
sách dân số, không có trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học), 3 sạch (Sạch nhà,
sạch bếp, sạch ngõ).
279

28.10 Page 280

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đời sống ở khu dân cư, giảm tỷ lệ tệ nạn, bảo vệ môi trường.
Hội Nông dân phối hợp mở nhiều lớp khuyến nông, bảo vệ
thực vật, hội thảo đầu bờ, đưa cây, con giống mới vào sản
xuất... giúp các hộ gia đình ổn định, chung tay xây dựng
nông thôn mới. Hội Cựu chiến binh hỗ trợ cùng vượt khó,
phát triển kinh tế gia đình, chung tay trong tuyên truyền giáo
dục truyền thống cho hội viên, đoàn viên, thanh thiếu niên
và học sinh. Tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên đổi
mới về nội dung và phương thức hoạt động. Các phong trào
thanh niên tham gia bảo vệ tổ quốc, xây dựng quê hương,
cùng hỗ trợ khởi nghiệp được phát động với giáo dục chính
trị tư tưởng trong đoàn viên, hội viên và thanh niên. Hoạt
động của Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi đem lại hiệu
quả thiết thực, ý nghĩa cho hội viên, đặc biệt công tác vận
động cứu trợ xã hội, nhân đạo từ thiện, nêu gương trong ứng
xử, lối sống đạo đức. Công đoàn xã Phú Hội thành lập năm
2005, thực hiện tốt việc tuyên truyền đường lối, chủ trương
chính sách, pháp luật cho cán bộ công chức xã. Hàng năm,
công đoàn phối hợp với ủy ban nhân dân xã tổ chức thực
hiện quy chế dân chủ, vận động thực hiện phong trào thi đua
yêu nước.
2. Thành tựu trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập phát triển
- Lĩnh vực kinh tế
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hội nhiệm kỳ 1995 - 2000
xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đặt
trọng tâm về kinh tế: Đẩy mạnh việc phát triển kinh tế toàn
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
diện, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương
theo hướng nông nghiệp, công thương nghiệp và dịch vụ;
Huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, lao động ở địa
phương.
Từ cơ sở của quá trình đổi mới đang được thực hiện,
trước tình hình thế giới có những biến động, Đảng bộ xã
nâng cao tinh thần đấu tranh, đổi mới và chỉnh đốn theo tinh
thần của Trung ương, để vượt qua những khó khăn, thách
thức, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu đề ra, trước
mắt đảm bảo an ninh kinh tế và chuyển đối cơ cấu của địa
phương, phục vụ cho chiến lược phát triển về sau.
Về những mục tiêu chung, qua từng năm, tổng thu
nhập quốc dân ở địa phương tăng từ 10 đến 12%. Nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, được quan tâm để đáp ứng
nhu cầu của địa phương trong tình hình thế giới có những
khủng hoảng về kinh tế. Bình quân thu nhập mỗi người đạt
1.000 kg lương thực (quy giá trị theo lúa)/năm. Giá trị tổng
sản lượng nông nghiệp tăng từ 8% đến 10%, tiểu thủ công
nghiệp tăng từ 4 đến 6% - thấp hơn chỉ tiêu.
Trong sản xuất, với lợi thế về nguồn đất thấp, xã đã
vận động nhân dân mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật
trong cây trồng, vật nuôi, sử dụng các loại giống cho năng
suất cao. Diện tích trồng lúa một vụ/năm của xã được ổn
định bờ vùng, bờ thửa để tăng vụ, đạt 163ha và sản lượng
bình quân đạt 6,8 tấn/ha. Từ năm 1996, xã chuyển đổi cơ
cấu cây trồng với hình thức hợp đồng với doanh nghiệp tư
nhân trồng sen xuất khẩu. Đến năm 2000, diện tích trồng
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
sen đạt 123ha, tạo nguồn thu nhập ổn định và việc làm cho
địa phương. Vườn cây ăn trái trên địa bàn xã có 149ha, từng
bước được cái biến thành vườn chuyên canh các loại cây
có giá trị kinh tế cao khoảng 20ha. Các diện tích của vườn
được các hộ dân xen canh các loại cây phù hợp, sử dụng kỹ
thuật lai ghép tạo thêm nguồn sản phẩm (mít tố nữ, dâu, sầu
riêng, xoài...). Diện tích canh tác hoa màu, cây lương thực
ngắn ngày, cây công nghiệp khoảng 1.207ha và dần được
chuyển đổi phù hợp theo tình hình của thị trường. Những
loại cây năng suất thấp được thay thế bằng điều cao sản,
tràm bông vàng, mì cao sản.
Trong chăn nuôi, các hộ gia đình được khuyến khích
tăng số lượng, sử dụng con giống chất lượng để ổn định
kinh tế. Bên cạnh các hộ chăn nuôi nhỏ đã xuất hiện hình
thức chăn nuôi với quy mô chuồng trại được đầu tư về cơ
sở, áp dụng khoa học kỹ thuật. Tỷ trọng chăn nuôi mỗi năm
tăng từ 10 đến 15%. Số lượng đàn gà, vịt đạt 41.000 con,
1.200 con heo, 450 con bò. Đặc biệt, dự án chăn nuôi bò
Apra được phát triển tốt, có chất lượng, hiệu quả cao. Người
dân tận dụng diện tích mặt nước ao hồ nuôi trồng thủy sản
tự nhiên và bán công nghiệp.
Tiểu thủ công nghiệp ở xã được duy trì nhưng còn ở
quy mô nhỏ, mang tính chất hộ gia đình. Về lâm nghiệp,
diện tích rừng tự nhiên tập trung ở vị trí các triền hố của
địa hình đồi và phân tán ở vườn, rẫy của hộ dân. Rừng tự
nhiên trên địa bàn xã đứng trước những thách thức trong
bảo vệ bởi khai thác củi, vật liệu. Nguồn tài nguyên đất
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
của xã được kiểm kê, quản lý. Xã tiến hành đo đạc và thực
hiện các thủ tục liên quan quyền sử dụng đất vừa tạo thuận
lợi trong quản lý và điều kiện để các hộ dân vay vốn kinh
doanh, sản xuất. Hàng năm, xã Phú Hội đều xây dựng kế
hoạch sử dụng quỹ đất.
Hệ thống giao thông trên địa bàn xã được quan tâm
duy tu, bảo quản. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”, nguồn xã hội hóa về kinh phí được huy động,
góp phần trong việc sửa chữa các tuyến đường liên thôn,
liên ấp. Toàn xã có trên 90% cầu, cống được bê tông hóa,
mương suối được nạo vét để thoát nước, chống ngập, úng.
Đường Cây Dầu thuộc Xóm Hố nối xã đến trung tâm huyện
dài 2.300m hoàn thành với tổng kinh phí thực hiện 481 triệu
đồng, trong đó có các hộ dân hiến đất không nhận đền bù.
Người dân các khu dân cư vận động cùng làm và sửa chữa
đường.
Năm 1994, công trình điện lưới quốc gia của xã Phú
Hội được hoàn thành, đem lại nhiều thuận lợi cho người dân
trong sinh hoạt, sản xuất...Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế
của hộ gia đình, toàn xã có 72% hộ dân sử dụng. Số hộ còn
lại trong tình trạng khó khăn, cùng với các hộ gia đình chính
sách, xã thực hiện chính sách hỗ trợ để người dân tiếp cận hệ
thống điện trên địa bàn.
Từ năm 2000 đến năm 2005, đất nước bước vào thời
kỳ hội nhập, về kinh tế, Đảng bộ xã Phú Hội đặt ra phương
hướng, mục tiêu: Đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện,
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Huy động mọi
tiềm năng sẵn có về tài nguyên, vốn, kỹ thuật, lao động ở
địa phương để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế
nông thôn nhằm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp, Nông nghiệp và Dịch vụ. Năm 2003, hội nghị
giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ xã Phú Hội xác định cơ cấu kinh
tế của địa phương: Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp -
Thương mại, dịch vụ và Nông nghiệp.
Một quá trình phấn đấu, nỗ lực với nhiều giải pháp
của Đảng bộ và nhân dân, đến năm 2005, cơ cấu kinh tế của
xã Phú Hội chuyển dịch theo mục tiêu đề ra. Tỷ trọng nông
nghiệp giảm nhanh từ 70% còn 37%, tiểu thủ công nghiệp
tăng từ 10% lên 32,5%, thương mại dịch vụ từ 20% tăng lên
30,5%. Thu nhập bình quân đầu người/ năm đạt 6.000.000
đồng (tăng 2,4 lần so với năm 2000, vượt chỉ tiêu 1,4 lần).
Trong nông nghiệp, tình hình sản xuất gặp nhiều khó
khăn bởi nhiều yếu tố: thời tiết bất ổn, ảnh hưởng năng
suất các loại cây trồng và giá vật tư nông nghiệp tăng cao,
chi phí sản xuất lớn, giá nông sản thấp, diện tích đất nông
nghiệp giảm do qui hoạch xây dựng các khu công nghiệp,
công trình công cộng khu trung tâm hành chính huyện. Tuy
nhiên, năng suất, sản lượng một số loại cây trồng mì, điều,
cây ăn trái ổn định, có chiều hướng tăng. Năm 2004, xã Phú
Hội hình thành những mô hình, tổ hợp tác làm ăn hiệu quả:
tổ hợp tác làm vườn có 22 thành viên, tập trung trồng mới
và duy trì một số cây ăn trái đặc sản phát triển tốt, tổ hợp tác
chuyên về trồng lúa, trồng sen. Diện tích vườn cây ăn trái
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
được cải tạo chuyên giống tốt có 25. Chăn nuôi giảm so với
trước do dịch cúm gia cầm xuất hiện. Đàn gia súc, gia cầm
giảm số lượng (450 con bò, 1.305 con heo, 32.000 con gà).
Nuôi thủy sản tự nhiên hàng năm sản lượng thu hoạch đạt
trên 2 tấn, chủ yếu là đánh bắt tự nhiên, chưa thực hiện nuôi
theo dự án. Về lâm nghiệp, xã tập trung chăm sóc và bảo
vệ rừng tự nhiên để thu hoạch gỗ, chất đốt và chống mưa lũ
xói mòn. Diện tích rừng của xã có 64,7ha và rừng phân tán
do nhân dân trồng được 29ha. Công tác bảo vệ, phòng cháy
chữa cháy rừng hàng năm thực hiện có hiệu quả.
Với vị trí thuộc khu Trung tâm hành chính huyện, xã
Phú Hội có những thuận lợi trong đầu tư phát triển hạ tầng.
Trên địa bàn xã, một số công trình được đầu tư xây dựng:
lưới điện trung thế, hạ thế; trải nhựa đường Cây Dầu, đường
Bờ, đường chắn nước, bê tông xi măng đường liên xóm, ấp;
kiên cố hoá 100% trụ sở làm việc từ xã đến các ấp. Toàn xã
có 1.635 hộ sử dụng điện (tỷ lệ 90,5%).
Tỉ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp (tính cả thu nhập
của lao động ở địa phương làm công nhân ở các khu công
nghiệp), bình quân hàng năm tăng 4,5%. Tuy qui mô chưa
lớn, số lượng chưa nhiều nhưng đã góp phần chuyển đổi
nhanh cơ cấu nền kinh tế địa phương. Các hoạt động thương
mại - dịch vụ phát triển khá nhanh. Mức độ luân chuyển
hàng hóa luôn ổn định. Với tiềm năng về cảnh quan sinh
thái độc đáo nhưng dịch vụ du lịch vườn còn hạn chế, hoạt
động dịch vụ vui chơi giải trí phát triển chưa nhiều.
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Trong lĩnh vực tài chính ngân sách, thu thuế của địa
phương đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, tăng thu ngân
sách bình quân đạt 12,3%. Nguồn thu xã hội hóa đa dạng,
được nhân dân hưởng ứng tích cực. Nguồn ngân sách trong
chương trình phát triển của chính quyền các cấp triển khai ở
địa phương đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của nhân dân. Hàng
năm, ngoài nguồn vốn của nhân dân đầu tư sản xuất bình
quân trên 10 tỉ đồng/năm, ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện hỗ trợ cho nhân dân vay từ 4,5 đến 5
tỷ đồng/năm. Các dự án từ nguồn quỹ quốc gia, tương trợ
của các đoàn thể góp phần tích cực giải quyết kịp thời cho
người dân đúng đối tượng áp dụng. Về lĩnh vực địa chính,
công tác xét đề nghị cấp giấy chứng nhận, chuyển quyền sử
dụng đất đúng quy định, kịp thời (cấp phát được 1487/1504
giấy, đạt tỷ lệ 98,87%). Xã Phú Hội thực hiện quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2010.
Năm 2010 đánh dấu một cột mốc 16 năm của xã Phú
Hội kể từ khi huyện Nhơn Trạch tái thành lập (1994 - 2010).
Với định hướng phát triển kinh tế trong hướng đi chung của
huyện Nhơn Trạch, Đảng bộ xã Phú Hội đặt mục tiêu: Tập
trung phát triển kinh tế toàn diện với cơ cấu Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông nghiệp.
Huy động mọi tiềm năng về tài nguyên, vốn, kỹ thuật, lao
động địa phương để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển
kinh tế theo hướng hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Cơ cấu kinh tế của Phú Hội chuyển dịch và tăng trưởng
theo hướng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (42,5%),
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thương mại - dịch vụ (32,5%) nông nghiệp; (25%). Thu
nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2010 tăng 2,3 lần
so với năm 2005. Diện tích đất sản xuất ở địa phương giảm
từ chính sách quy hoạch phát triển công nghiệp, đô thị hóa.
Với việc áp dụng khoa học, kỹ thuật từ nhiều chương trình
khuyến nông đã tạo cho năng suất, sản lượng nông sản tăng
lên. Trong năm 2008-2009, ở xã thực hiện dự án nuôi cá, sen
theo vụ đạt 20ha với sản lượng từ 4-5 tấn/ha. Mô hình kinh
tế hợp tác duy trì với 2 tổ hợp tác kinh tế. Nông dân tiếp tục
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo vườn tạp trên đạt 25ha.
Năm 2008, ở xã thành lập mô hình kinh tế hợp tác xã dịch
vụ nông nghiệp và xây dựng. Chăn nuôi trên địa bàn phát
triển theo hộ gia đình. Diện tích rừng tự nhiên có 68,3ha,
được bảo vệ và khai thác phù hợp. Nhân dân trồng rừng
phân tán khảng 29ha.
Từ đầu tư của huyện và đóng góp của nhân dân, nhiều
công trình công cộng trên địa bàn được xây dựng: mở rộng
mạng lưới điện hạ thế 6.170m, trải nhựa đường dốc Nhà thờ,
đường Chắn nước 5.000m, nâng cấp 5.988m đường giao
thông nông thôn (trong đó bê tông xi măng 3.895m, còn lại
là đất sỏi đỏ). Cơ sở vật chất phục vụ cho làm việc của xã,
ấp được xây dựng: Hội trường ủy ban xã, trụ sở ấp Xóm Hố,
tường chắn đất, văn phòng một cửa, văn phòng Ban chỉ huy
quân sự, công an xã và xây mới trạm y tế.
Thương mại - dịch vụ có bước phát triển đều trong cơ
cấu kinh tế gồm các ngành: xây dựng, dịch vụ - ăn uống,
kinh doanh nhà trọ và hộ buôn bán... cơ bản phục vụ nhu cầu
287

29.8 Page 288

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
tiêu dùng thiết yếu người dân địa phương. Mạng lưới dịch
vụ ở địa phương chưa nhiều trong khi tiềm năng khai thác
lớn. Về tài chính - tín dụng, thu thuế đạt và vượt kế hoạch.
Quản lý đất đai, quỹ đất công và mốc địa giới hành chính
của xã, được lập kế hoạch, điều chỉnh phù hợp với thực tế
và định hướng phát triển chung của địa phương và huyện
Nhơn Trạch. Tài nguyên - môi trường được quan tâm trong
bảo vệ bởi nhiều biện pháp hữu hiệu và vận động nhân dân
tham gia.
Tổng thu ngân sách trong 5 năm trên 13 tỷ đồng, hàng
năm vượt chỉ tiêu giao từ 172% đến 404%. Ngân sách nhà
nước thông qua các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng,
dự án... thuận lợi cho người dân địa phương vay vốn ổn
định, phát triển kinh tế, góp phần trong giảm nghèo.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Song hành với mục tiêu phát triển kinh tế gắn với nâng
cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân, xã Phú Hội
quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với hoạt
động văn hóa, truyền thông. Từ năm 1995, mạng lưới truyền
thanh của xã được đầu tư khá đầy đủ với đường dây, loa
đến các ấp trên địa bàn. Hàng ngày, định kỳ, thông tin được
phát kịp thời đến với người dân từ chủ trương, đường lối,
chính sách của đất nước, những nội dung liên quan của địa
phương. Đội kiểm tra văn hóa phối hợp thực hiện kiểm tra
các dịch vụ vui chơi, giải trí và chấn chỉnh kịp thời, khuyến
nghị thực hiện theo quy định. Thực hiện kiểm kê di tích phổ
thông trên địa bàn, xã phối hợp cơ quan chức năng, hỗ trợ
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
công tác khảo sát, lập hồ sơ các di sản văn hóa. Phong trào
xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa được phát
động rộng rãi. Các hộ dân đăng ký gia đình văn hóa đạt trên
85%. Năm 1999, 2 ấp của xã được công nhân là ấp văn hóa.
Hoạt động thể dục thể thao được phát động, thu hút nhiều
người tham gia. Xã cử những thí sinh, vận động viên tham
gia các hội thi do huyện phát động, cùng các xã phối hợp tổ
chức. Văn nghệ quần chúng có những bước khởi sắc, đặc
biệt, thành lập được câu lạc bộ Hát cho nhau nghe, Đờn ca
tài tử.
Cơ sở phòng học ở một số trường trên địa bàn xã được
đầu tư duy tu, sửa chữa, đáp ứng nhu cầu học của học sinh.
Từ năm 1995 đến năm 1997, xã nâng cấp và xây mới 10
phòng học. Năm 1996, xây mới thư viện trường tiểu học và
1 lớp mẫu giáo. Năm 1998, từ nguồn xã hội hóa, xã xây mới
dãy phòng học gồm 10 lớp (1 trệt, 1 lầu) tại khu Giang Lò.
Nguồn giáo viên tại các trường không thiếu. Trình độ giáo
viên được nâng lên qua các đợt kiểm tra, từng năm học, số
lượng giáo viên đạt khá, giỏi tăng. Số học sinh mỗi năm đến
trường đều tăng, hạn chế được tình trạng bỏ học. Chất lượng
dạy và học phản ánh qua số học sinh đạt danh hiệu khá, giỏi
từng lớp tăng từ 30 đến 40%, học sinh tuyển vào lớp đầu
cấp trung học cơ sở đạt tỷ lệ 97% trở lên. Xã làm tốt vận
động gia đình đưa trẻ em tham gia lớp mầm non. Công tác
xóa mù chữ, phổ cập tiểu học được địa phương quan tâm,
thực hiện hiệu quả và được công nhận đạt chuẩn quốc gia
vào năm 1998.
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Lĩnh vực y tế có nhiều kết quả từ sự nỗ lực chung của
địa phương và đầu tư hỗ trợ từ các cấp. Trạm y tế xã được
xây dựng mới từ năm 1996 với nguồn kinh phí của huyện
Nhơn Trạch. Nguồn nhân lực của trạm có 5 người, 1 trình
độ bác sĩ, 4 y sĩ. Các dịch vụ y tế tư nhân được thành lập,
đóng góp vào hoạt động khám chữa bệnh chung trên địa
bàn xã. Các chương trình y tế cộng đồng: chăm sóc sức
khỏe ban đầu, tiêm phòng uốn ván đối với trẻ sơ sinh, tiêm
chủng mở rộng phòng chống các bệnh trẻ em, trẻ em uống
vắc xin phòng chống bại liệt, phòng ngừa các bệnh thiếu
Vitamin, bướu cổ cho người dân... được thực hiện tốt. Nhân
dân được vận động tham gia tích cực trong phong trào bảo
vệ vệ sinh môi trường, giữ gìn sức khỏe, phòng chống các
bệnh xã hội. Chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình
được truyền thông rộng rãi đến mọi người, các gia đình trong
độ tuổi sinh sản. Tỷ lệ tăng dân số ở địa phương ổn định ở
mức 1,2%.
Là địa phương có số gia đình, đối tượng chính sách
nhiều, xã Phú Hội thực hiện chế độ kịp thời, đúng quy định.
Công tác đền ơn đáp nghĩa được duy trì, đem lại sự động
viên tích cực đối với các gia đình cha mẹ liệt sĩ. Nhiều
đơn vị, cơ quan, đoàn thể được vận động đã nhận đỡ đầu,
phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống ở địa
phương. Chính sách hậu phương quân đội tiếp tục được duy
trì qua các hoạt động tìm kiếm hài cốt liệt sĩ tập trung về
nghĩa trang huyện (22 trường hợp), rà soát và lập hồ sơ đối
với các trường hợp đạt chuẩn trong quy định phong, truy
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tặng danh hiệu Bà mẹ anh hùng (03 hồ sơ), xác minh nhiều
trường hợp hoạt động cách mạng. Xã Phú Hội xây 58 nhà
tình nghĩa tặng đối tượng chính sách và 6 nhà tình thương
cho các hộ nghèo. Công tác xóa đói giảm nghèo đem lại kết
quả với 193/351 hộ vượt nghèo. Nhiều hộ nghèo được tạo
điều kiện vay vốn để tăng gia sản xuất, kinh doanh, cải thiện
đời sống trong các chương trình của nhà nước. Từ nguồn
quỹ quốc gia giải quyết việc làm, xã thành lập 5 dự án để
giải quyết nhu cầu lao động cho người dân.
Đến năm 2005, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao, rèn luyện sức khỏe thu hút nhiều người tham
gia. Đơn vị chức năng thường xuyên kiểm tra các điểm dịch
vụ văn hóa, bảo vệ tốt di tích, di sản văn hóa trên địa bàn,
trong đó có di tích đình Phú Mỹ được xếp hạng di tích cấp
quốc gia, trở thành địa điểm cho hoạt động giáo dục, tuyên
truyền bảo vệ truyền thống văn hóa cho thanh niên, học sinh.
Lễ hội tại các đình, di tích trở thành điểm sinh hoạt văn hóa
lành mạnh, gắn kết cộng đồng, góp phần gìn giữ những mỹ
tục trong đời sống người dân. Hàng năm, xã đều xây dựng
kế hoạch thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư. Năm 2002, bốn ấp của xã Phú Hội được
công nhận Ấp văn hóa và giữ vững danh hiệu nhiều năm
liền. Số hộ đăng ký xây dựng nếp sống văn minh - gia đình
văn hóa đạt 100%, cuối năm xét hộ đạt danh hiệu gia đình
văn hóa trên 93%, trụ sở làm việc được huyện kiểm tra công
nhận là đơn vị có đời sống văn hóa tốt.
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Giáo dục địa phương đã có bước phát triển khá toàn
diện, hàng năm các cháu 5 tuổi vào mẫu giáo, học sinh vào
lớp 1, học sinh tốt nghiệp tiểu học đều đạt 100%. Bằng
nhiều hình thức khuyến học có hiệu quả, chất lượng học
sinh nâng lên và tăng dần trong các năm. Ngân sách xã và
20% nguồn thu xã hội hóa giáo dục được dùng tu sửa cơ sở
trường lớp. Chất lượng giáo viên được chuẩn hóa. Xã Phú
Hội được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung
học cơ sở năm 2004.
Trạm y tế được sửa chữa, dụng cụ y tế được trang bị
đáp ứng công tác khám chữa bệnh ban đầu cho người dân.
Đội ngũ thầy thuốc được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ, rèn luyện y đức. Các chương trình y tế quốc gia, y tế
cộng đồng, giữ gìn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực
phẩm, phòng chống dịch bệnh... thực hiện hiệu quả, nhân
dân hưởng ứng. Truyền thông dân số, gia đình sâu rộng ở
các địa bàn dân cư. Trên địa bàn xã, có 80% cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai, thực
hiện kế hoạch hóa gia đình qua tuyên truyền, vận động. Tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên ổn định ở mức 1,1%, đạt chỉ tiêu.
Cơ quan hữu trách thực hiện tốt chế độ chính sách,
công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Các gia đình chính sách khó
khăn được giúp đỡ kịp thời, đời sống được cải thiện hơn
mức sống trung bình ở địa phương. Địa phương thực hiện
tốt công tác chính sách tồn đọng sau chiến tranh: quy tập
được 27 hài cốt liệt sĩ đưa về nghĩa trang, xây dựng 9 nhà
tình nghĩa, 34 căn nhà tình thương, sửa chữa 24 nhà cho
292

30.3 Page 293

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đối tượng chính sách. Thực hiện xóa đói giảm nghèo, xã
tạo thuận lợi cho người dân vay vốn tạo việc làm, sản xuất,
kinh doanh. Đến giữa năm 2004 điều tra theo chuẩn mới
về hộ nghèo, xã còn 96 hộ, giảm 166 hộ. Nhu cầu việc làm
ở địa phương khá lớn bởi dân số đông trong lĩnh vực nông
nghiệp. Sự phát triển đô thị và chuyển dịch kinh tế theo
hướng công nghiệp tác động đến nguồn lao động tại chỗ. Xã
phối hợp và giải quyết trên 1.000 lao động có việc làm ổn
định. Mức sống của người dân không ngừng được nâng lên,
số hộ khá giàu chiếm 52,72%, số hộ có mức sống trung bình
chiếm 45,29%, hộ có nhà kiên cố và bền vững chiếm 73,8%,
hộ có xe gắn máy chiếm 90%, hộ có phương tiện nghe nhìn
trên 98%, hộ sử dụng nước sạch đạt 100%.
Đến năm 2010, xã Phú Hội có những chuyển biến tích
cực trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Mạng lưới truyền thanh
hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin. Chất lượng
công tác tuyên truyền được nâng lên. Đời sống tinh thần
của nhân dân được nâng mức hưởng thụ qua các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí được tổ
chức, phát động. Các thiết chế truyền thống trong cộng đồng
dân cư hoạt động tốt, di tích lịch sử được bảo vệ. Bốn ấp của
xã Phú Hội giữ vững danh hiệu ấp văn hóa hàng năm. 100%
số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa và đạt tỷ lệ trên
96%. Xã Phú Hội đạt danh hiệu xã làm tốt công tác phòng
chống tệ nạn mại dâm - ma túy nhiều năm liền.
Chất lượng giáo dục được nâng tầm, phát triển khá
toàn diện. Chất lượng giáo viên được quan tâm, tạo điều
293

30.4 Page 294

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
kiện chuẩn hóa. Cơ sở vật chất trường lớp được tu bổ nâng
cấp đảm bảo phục vụ cho cấp học từ mầm non, mẫu giáo đến
tiểu học. Ngành giáo dục thực hiện tốt trong phòng chống
tiêu cực và bệnh thành tích, phát động phong trào xây dựng
“Trường học thân thiện học sinh tích cực”. Tỷ lệ học sinh
khá, giỏi hàng năm tăng và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bình
quân trong 5 năm các cấp học như sau: Tiểu học đạt 100%,
Trung học cơ sở đạt 96%, Trung học phổ thông đạt 80,5%.
Công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục, phổ cập trung học
cơ sở và phổ cập trung học phổ thông được duy trì. Hội
Khuyến học đã tổ chức thực hiện tốt phong trào “khuyến
học, khuyến tài”, quỹ khuyến học hỗ trợ, cấp học bổng cho
học sinh, sinh viên vượt khó, xây dựng gia đình hiếu học.
Trạm y tế được đầu tư xây dựng đạt chuẩn từ đầu năm
2009, trang bị dụng cụ y tế được trang bị, có giường bệnh,
đội ngũ thầy thuốc, bác sĩ khám, chữa bệnh. Địa phương
được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Chương trình y
tế quốc gia, cộng đồng, phòng chống dịch bệnh, hoạt động
kiểm tra an toàn thực phẩm được tuyên truyền, duy trì hiệu
quả. Chất lượng chương trình dân số - gia đình và trẻ em
đem lại hiệu quả. Chiến dịch truyền thông lồng ghép dân số,
kế hoạch hóa gia đình sâu rộng. Tỷ lệ tăng dân số ổn định
với mức chỉ tiêu đặt ra.
Chính sách xã hội được thực thi hiệu quả. Gia đình
và đối tượng chính sách, trong đó có 23 mẹ Việt Nam anh
hùng, 4 mẹ còn sống được chăm lo. Từ nhiều nguồn đóng
góp, hộ gia đình chính sách, khó khăn được giúp đỡ kịp
294

30.5 Page 295

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thời. Trong nhiệm kỳ, xã quy tập được 6 hài cốt liệt sĩ và 2
hài cốt mẹ Việt Nam anh hùng về nghĩa trang. Xã xây dựng
mới 35 nhà tình thương, 6 nhà tình nghĩa, sửa chữa 31 ngôi
nhà cho đối tượng chính sách. Xã Phú Hội được công nhận
làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công trong
nhiều năm. Hàng năm, xã kế hoạch giúp cho hộ nghèo vay
vốn sản xuất. Hộ nghèo giảm xuống còn 45 hộ. Mức sống
của người dân được nâng lên: 52,72% hộ khá giàu, 45,29%
hộ có mức sống trung bình, 73,8% hộ có nhà kiên cố, bền
vững, 90% hộ có xe gắn máy, trên 98% hộ có phương tiện
nghe nhìn.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, đặc
biệt khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, cuộc khủng hoảng
kinh tế châu Á tác động mạnh đến Việt Nam. Những thế lực
thù địch tìm cách chống phá, thực hiện diễn biến hòa bình
nhằm gây mất ổn định ở Việt Nam.
Đảng ủy xã Phú Hội chỉ đạo lực lượng vũ trang nâng
cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh trật tự địa
bàn và tuyên truyền trong nhân dân cảnh giác với âm mưu
của kẻ thù. Xã đội, lực lượng thường trực xã, dân quân các
ấp luôn được củng cố, nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu.
Công tác huấn luyện, kế hoạch diễn tập, phòng thủ hàng
năm quân số tham gia đạt chỉ tiêu quy định, xây dựng lực
lượng dân quân tại chỗ đạt 2,14%. Xã Phú Hội có 54 thanh
niên lên đường nhập ngũ, trong đó kết nạp được 10 đảng
viên, kiến nghị xử lý 3 trường hợp đào bỏ ngũ. Quản lý tốt
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
lực lượng dự bị động viên gồm 158 quân nhân (10 sĩ quan),
biên chế vào các đơn vị dự bị, huấn luyện hàng năm.
Mạng lưới an ninh trong nhân dân được tăng cường
lên 68 tổ, 6 đội dân phòng góp phần trong nắm bắt tin tức
kịp thời, tuần tra bảo vệ địa bàn cơ sở. Năm 1999, công an
Phú Hội được tặng thưởng Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Công
an về thành tích trong phong trào quần chúng tham gia bảo
vệ an ninh Tổ quốc. Quản lý hộ khẩu được thực hiện chặt
chẽ ở từng tổ, ấp đến xã, nắm rõ những biến động nhân khẩu
trong từng giai đoạn. Tình hình tội phạm xã hội giảm và
công tác quản lý đối tượng vi phạm tại địa phương thực hiện
nghiêm. Lực lượng xã đội duy trì chế độ trực và tinh thần
sẵn sàng chiến đấu với các kế hoạch huấn luyện, diễn tập
định kỳ. Phú Hội hình thành 5 đội dân quân xã, ấp, phối hợp
với du kích tuần tra canh gác địa bàn. Tuyển quân mỗi năm
thực hiện theo kế hoạch với các bước chuẩn bị đầy đủ, theo
quy định, được tuyên truyền rộng rãi và các đoàn thể vận
động tích cực. Số lượng tuyển quân luôn đạt chỉ tiêu và đáp
ứng chất lượng theo yêu cầu. Từ năm 1995 đến năm 2000,
toàn xã có 44 thanh niên nhập ngũ. Mỗi năm, xã nhận những
quân nhân xuất ngũ về địa phương, thực hiện tốt chính sách
hậu phương quân đội.
Giai đoạn 2000 - 2005, xã duy trì, củng cố và nâng cao
chất lượng hoạt động các đội dân phòng, tổ an ninh nhân
dân. Qua thông tin nắm bắt ở cơ sở, điều tra, lực lượng công
an triệt phá làm rõ 118 vụ vi phạm an ninh, xử lý 178 đối
tượng. Quản lý nhân khẩu của xã chặt chẽ, toàn xã có 1. 807
296

30.7 Page 297

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hộ, 8.143 nhân khẩu. Lực lượng an ninh kiểm tra hành chính
374 lượt, phát hiện 578 trường hợp vi phạm, xử lý phạt hành
chính 231 trường hợp, cảnh cáo nhắc nhở 347 trường hợp.
Quản lý giáo dục 4 đối tượng tại địa phương, đưa tập trung
cải tạo 12 đối tượng.
Giai đoạn 2005 - 2010, tình hình an ninh quốc gia, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của xã được giữ vững
ổn định. Chất lượng cán bộ công an, lực lượng dân phòng
đều được nâng lên. Xã thực hiện tốt công tác quản lý nhân
hộ khẩu, nắm chắc các địa bàn trọng điểm về an ninh trật tự.
Các phong trào phòng chống, giảm thiểu tệ nạn xã hội, tội
phạm các loại được tuyên truyền, phát động và quần chúng
hưởng ứng. Lực lượng an ninh phối hợp với đoàn, hội, nhà
trường tuyên truyền về pháp luật qua các hội thi tìm hiểu
pháp luật, phòng ngừa tệ nạn xã hội cho 850 đoàn viên, 970
học sinh. Công tác quản lý nhân khẩu chặt chẽ, nắm được
số hộ, nhân khẩu: Toàn xã có 2.097 hộ, 8.933 nhân khẩu
thường trú, tăng so với năm 2005 là 268 hộ, 656 nhân khẩu,
số hộ tạm trú 140 hộ, 1.512 khẩu. Nhân dân cung cấp 141
tin liên quan đến an ninh, giúp cho đơn vị xử lý kịp thời các
vụ vi phạm, bắt đối tượng truy nã, thu hồi tài sản cho nhân
dân. Xã kết hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh huyện trong
công tác phòng chống tội phạm về ma túy. Lực lượng xã đội
nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bám sát với tình hình
thực tế, đảm bảo tốt công tác bảo vệ đảng, chính quyền và
đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiệu quả, tạo
được thế trận vững chắc. Lực lượng dân quân duy trì ở địa
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
bàn xã, ấp. Lực lượng dự bị động viên được quản lý tốt và
được biên chế vào các đơn vị. Trong 5 năm, xã có 76 thanh
niên nhập ngũ, thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự. Công tác
tư pháp hoạt động ổn định, xây dựng tốt tủ sách pháp luật,
tuyên truyền phổ biến nhiều hình thức từ xã đến ấp, tổ nhân
dân. Hội đồng hoà giải xã giải quyết kịp thời, thấu tình, đạt
lý trong khiếu nại, tố cáo của công dân. Xã tiếp nhận 184
đơn với các nội dung tranh chấp, khiếu nại đa dạng và kết
quả tỉ lệ hòa giải thành đạt 62%.
Từ thực tiễn của địa phương, Đảng bộ xã Phú Hội với
vai trò lãnh đạo địa phương thực hiện thắng lợi những mục
tiêu đặt ra trong từng giai đoạn. Tổ chức Đảng cùng với
chính quyền, hệ thống chính trị đã thực thi, phối hợp, triển
khai các nhiệm vụ được phân công theo chức năng. Từ năm
1994 đến năm 2010, 16 năm với 3 kỳ đại hội, sau mỗi chặng
đường, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đều đánh giá, kiểm điểm
vai trò trách nhiệm trong quá trình lãnh đạo địa phương thực
hiện nghị quyết. Bên cạnh những kết quả đạt được trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng... vẫn
còn tồn tại những yếu kém, bất cập. Ban Chấp hành Đảng
bộ xã nhận diện được thực trạng và hạn chế: Ban Chấp hành
hoạt động chưa đều, các chi bộ chưa chủ động, linh hoạt
để nâng cao sức chiến đấu. Công tác cán bộ vẫn còn lúng
túng trong quy hoạch, bố trí. Một số đảng viên chưa phát
huy được vai trò, trách nhiệm và tính nêu gương. Năng lực
và vai trò của một số đại biểu nhân dân, cán bộ trong chính
quyền còn hạn chế. Mặt trận và các đoàn thể góp phần quan
298

30.9 Page 299

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
trọng trong vận động quần chúng nhưng vẫn chưa tập hợp
rộng rãi hội viên, đối tượng tham gia. Khối đại đoàn kết toàn
dân ở địa phương chưa phát huy mạnh mẽ... Trước tình hình
mới với nhiều vận hội mở ra, trong định hướng phát triển
của huyện Nhơn Trạch, Đảng bộ xã Phú Hội đề ra những
giải pháp phù hợp: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng
cao năng lực quản lý nhà nước và phát huy vai trò của nhân
dân theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”; Đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động
của Ban Chấp hành Đảng bộ đến các chi bộ, thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình; Nâng cao
trình độ, năng lực đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên; Tuyên
truyền sâu rộng và thực hiện hiệu quả quy chế dân chủ cơ
sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; Quán triệt đến
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nghị quyết, chính
sách, chương trình hành động của Đảng bộ xã về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Cùng với
những biện pháp cụ thể trên từng lĩnh vực, Đảng bộ xã Phú
Hội nâng cao năng lực và sức chiến đấu, tiếp tục lãnh đạo
địa phương phát triển theo hướng đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hoàn thành xây dựng địa phương đạt
chuẩn Nông thôn mới.
299

30.10 Page 300

▲back to top


Chương VII
TẠO NGUỒN LỰC
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2020)
1. Xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống
chính trị vững mạnh, tập trung hiện đại hóa nông thôn
Thập niên đầu thế kỷ 21, xã Phú Hội đạt được những
thành quả trong quá trình cùng đất nước hội nhập, phát triển.
Đảng bộ xã Phú Hội đúc kết những bài học kinh nghiệm
để tiếp tục lãnh đạo nhân dân địa phương bước vào giai
đoạn mới, cùng cả nước phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới.
Trong đó, vai trò của tổ chức đảng, chính quyền và hệ thống
chính trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng nhằm phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết thực hiện các mục tiêu đề
ra trong giai đoạn mới. Từ tháng 5-2010 đến tháng 5-2020,
Đảng bộ xã Phú Hội tổ chức 2 kỳ đại hội.
- Tổ chức Đảng
Tháng 5-2010, đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2010 -
2015), Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hội được bầu gồm
các đồng chí: Nguyễn Anh Tuấn (Bí thư), Châu Thanh
Phong (Phó Bí thư); các ủy viên: Nguyễn Quang Vinh,
Huỳnh Thị Thu Sương, Lê Minh Thông, Nguyễn Vũ Anh,
Hoàng Thanh, Hồ Văn Phong, Võ Duy Linh. Đảng bộ xã
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đề ra công tác quan trọng về giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ
chức cán bộ, kiểm tra giám sát và các giải pháp nhằm tăng
cường sức chiến đấu của tổ chức trong thực thi nhiệm vụ.
Trong nhiệm kỳ, có sự thay đổi về nhân sự trong Ban Chấp
hành và vị trí lãnh đạo của Đảng bộ xã. Đồng chí Nguyễn
Thị Hồng Vân giữ chức Bí thư từ tháng 3-2011 đến tháng
10-2013. Sau đó, đồng chí Lang Văn Út làm Bí thư từ tháng
10-2013 cho đến năm 2015. Phó Bí thư gồm các đồng chí:
Châu Thanh Phong, Phạm Anh Dũng. Các ủy viên bổ sung:
Nguyễn Huy Sang, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Thị Tơn.
Đại hội xã Phú Hội xác định mục tiêu, phương hướng
tổng quát giai đoạn 2010 - 2015: “Đẩy mạnh phát triển kinh
tế toàn diện, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp; Thương mại - dịch vụ;
Nông nghiệp. Huy động mọi tiềm năng về tài nguyên, vốn,
kỹ thuật, lao động ở địa phương để xây dựng cơ sở hạ tầng
và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
nông nghiệp nông thôn. Gắn tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa xã hội, nâng cao dân trí, giải quyết việc làm,
tập trung công tác xóa nghèo, phòng chống dịch bệnh, chăm
lo sức khỏe nhân dân, đời sống các gia đình chính sách. Đầu
tư, xây dựng các thiết chế văn hóa, tập trung đẩy lùi các
tệ nạn xã hội, thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư. Hoàn
thành Đề án xây dựng và phát triển nông thôn mới đến năm
2015. Xây dựng hệ thống chính trị mạnh về tổ chức, vững
về chính trị, đa dạng hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
các phong trào. Đổi mới phương thức vận động quần chúng,
phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện tốt các chính sách
về Tôn giáo, Dân tộc, phát động mạnh mẽ phong trào thi
đua yêu nước. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ
vững ổn định an ninh quốc phòng. Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của toàn Đảng bộ. Nhân rộng điển hình các gương tốt
về việc thực hiện”1.
Đảng bộ quan tâm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy,
nhà nước triển khai đến toàn thể cán bộ, đảng viên (tỷ lệ trên
trên 99% học tập). Tư tưởng cán bộ, đảng viên ổn định, an
tâm trong công tác, tích cực hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Đảng viên gương mẫu và thực hiện tốt quy định của
Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Mỗi
đảng viên học tập và tự rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính
trị, năng lực, cụ thể hóa đường lối, tạo được sự thống nhất
cao trong đảng bộ và quần chúng. Với mục đích nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng, Đảng bộ xã tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng, xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh. Công
tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ được quan tâm với
việc củng cố tổ chức bộ máy, đảm bảo nguồn lực cán bộ đạt
chuẩn. Đánh giá cán bộ được thực hiện trên cơ sở khả năng,
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
302

31.3 Page 303

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
mức độ hoàn thành nhiệm vụ và năng lực lãnh đạo, điều
hành. Ban Chấp hành Đảng bộ tuân thủ nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và chú trọng
đổi mới, nâng cao chất lượng trong việc xây dựng các nghị
quyết chuyên đề phù hợp tình hình địa phương. Quá trình
thực hiện duy trì kiểm tra, đôn đốc và tổng kết kịp thời. Ban
Chấp hành đảm bảo giữ mối quan hệ làm việc giữa Đảng ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân nhân và khối vận chặt chẽ,
chủ động nắm bắt tình hình và chỉ đạo giải quyết hiệu quả.
Đảng bộ xã Phú Hội có 160 đảng viên, sinh hoạt ở 12
chi bộ trực thuộc. Tổng số đảng viên miễn công tác, miễn
sinh hoạt là 18 đồng chí, đảng viên dự bị 13 đồng chí. Các
đảng viên còn lại đều tham gia công tác ở địa phương hoặc
phân công nhiệm vụ ở các ấp, các tổ nhân dân (tỷ lệ trên
98%). Đảng viên tham gia bộ máy chính quyền địa phương
59 đồng chí (13 công chức, 11 chuyên trách, 21 không
chuyên trách, 14 cấp ấp). Chất lượng chuyên môn đạt chuẩn
có 54 đồng chí, đạt chuẩn về chính trị có 52 đồng chí. Lực
lượng công an và quân sự có 19 đồng chí. Tổ chức đảng duy
trì sinh hoạt và tuân thủ theo quy định, nâng cao về chất
lượng. Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm,
bảo đảm về chất lượng và số lượng. Trong nhiệm kỳ, kết nạp
51 đảng viên. Hàng năm có trên 16% đảng viên hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ; 72% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm
vụ; 11% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Đảng bộ xã được
đánh giá: năm 2010 đạt “Trong sạch vững mạnh”, các năm
2011, 2013, 2014 đạt Hoàn thành tốt nhiệm vụ, năm 2012:
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đạt Hoàn thành nhiệm vụ. Ban Chấp hành Đảng bộ xã chỉ
đạo thực hiện bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, xác minh, làm
rõ những vấn đề liên quan cán bộ đảng viên, nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch, đào tạo và bố trí cán bộ, kết nạp
đảng viên. Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra tổ chức giám sát định
kỳ, đột xuất những nội dung, chuyên đề theo quy định, điều
lệ đối với các chi bộ, đảng viên; trong đó, giải quyết 11 đơn
thư tố cáo, khiếu nại. Trong nhiệm kỳ, kỷ luật trong đảng
thực hiện với các hình thức đối với các đảng viên vi phạm
(2 khai trừ, 3 cảnh cáo, 6 khiển trách) và 6 trường hợp do
điều kiện gia đình đi làm việc ở xa, không tuân thủ chế độ
sinh hoạt, xin ra khỏi tổ chức. Đảng viên tham gia học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đầy đủ. Đảng
bộ xã tuyên dương 12 đồng chí/56 cá nhân điển hình (5 cán
bộ chủ chốt, khen thưởng 18 tập thể, 44 cá nhân). Mỗi đảng
viên nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu,
tinh thần tự phê bình và phê bình.
Tháng 5-2015, đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ
VI được tổ chức. Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015
- 2020 được bầu gồm các đồng chí: Lang Văn Út (Bí thư),
Phạm Anh Dũng (Phó Bí thư đến tháng 3-2016) và các ủy
viên gồm: Huỳnh Thị Thu Sương, Nguyễn Quang Vinh,
Lê Đức Tài, Nguyễn Vũ Anh, Nguyễn Huy Sang, Hồ Văn
Phong, Võ Duy Linh. Trong nhiệm kỳ có một số thay đổi
nhân sự ở một số vị trí: đồng chí Phan Văn Nhựt giữ chức
Phó Bí thư (tháng 3-2016), Võ Duy Linh không tham gia
Ban Chấp hành (tháng 12-2015), đồng chí Bùi Thanh Oai
304

31.5 Page 305

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
bổ sung vào Ban Chấp hành (tháng 12-2015 - tháng 4-2018),
Dương Khắc Chiến (tháng 4-2018 đến năm 2020).
Mục tiêu tổng quát của nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng
bộ xã Phú Hội xác định: “Đổi mới phương thức và nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ xã; đẩy
mạnh phát triển kinh tế toàn diện; thực hiện tốt và đồng bộ
các chính sách an sinh xã hội; bảo đảm quốc phòng an ninh,
giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; phấn
đấu hoàn thành các tiêu chí về xây dựng Nông thôn mới;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tăng cường công
tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội, tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng Chính quyền; tiếp tục đẩy mạnh việc
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”;
xây dựng Đảng bộ xã Phú Hội trong sạch vững mạnh”1.
Đảng bộ tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Công tác cán bộ được quan tâm thực hiện thông qua việc
củng cố tổ chức bộ máy, đảm bảo nguồn lực cán bộ đạt
chuẩn, chú trọng đánh giá cán bộ dựa trên khả năng, mức
độ hoàn thành nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo điều hành. Ban
Chấp hành Đảng bộ xã tuân thủ nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nghị quyết, chỉ
thị của tổ chức Đảng cấp trên được quán triệt và cụ thể hóa
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
305

31.6 Page 306

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
trong chuyên đề phù hợp với thực tế địa phương. Quá trình
thực hiện có kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, phân tích đánh giá
kịp thời, đưa nghị quyết đi vào cuộc sống.
Đảng ủy đã tổ chức quán triệt học tập và tuyên truyền
kịp thời nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Tỉnh uỷ, Huyện
ủy và các chương trình hành động đến toàn thể cán bộ, đảng
viên (tỷ lệ học tập đạt 99,3% trong toàn Đảng bộ). Tư tưởng
của cán bộ, đảng viên ổn định, chấp hành tốt các chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Chất lượng đảng
viên được nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, năng lực thực hiện nhiệm vụ. Quy hoạch, đào tạo,
bố trí sử dụng cán bộ được thực hiện thường xuyên hàng
năm, nhất là quy hoạch cán bộ nguồn, cán bộ nữ, cán bộ trẻ.
Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy thực hiện các đợt kiểm tra,
giám sát đối với 11 chi bộ trực thuộc trong các lĩnh vực,
kiểm tra 1 trường hợp đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm,
giám sát chuyên đề 17 trường hợp cấp ủy viên, đảng viên
do cấp ủy quản lý. Ủy ban kiểm tra giải quyết 7 đơn thư tố
cáo đối với 7 đảng viên (kết quả: 1 trường hợp tố cáo sai, 2
trường hợp chỉ đúng một phần, 4 trường hợp có vi phạm) và
xét thi hành kỷ luật 3 trường hợp). Bốn 4 đảng viên vi phạm
bị xử lý kỷ luật (Huyện ủy cảnh cáo 1 đồng chí, Đảng ủy xã
khiển trách 3 đồng chí). Có 7 đảng viên do hoàn cảnh gia
đình, đi làm việc xa, không giữ chế độ sinh hoạt đã làm đơn
xin ra khỏi tổ chức.
Các đợt học tập, bồi dưỡng chuyên đề đem lại kết quả
tích cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng.
306

31.7 Page 307

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Đảng ủy khen thưởng cho 18 tập thể và 44 cá nhân đạt thành
tích, trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, có 56 gương điển hình ở nhiều lĩnh vực.
Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm, bảo đảm
về chất lượng và số lượng, kết nạp đảng viên mới 76 đồng
chí. Đến năm 2020, Đảng bộ xã có 206 đảng viên, sinh hoạt
ở 11 chi bộ trực thuộc (32 đảng viên miễn công tác, miễn
sinh hoạt, 13 đảng viên dự bị). Số đảng viên còn lại đều
tham gia công tác ở địa phương hoặc được phân công công
tác ở các ấp, các tổ nhân dân (tỷ lệ trên 98%). Hàng năm
có trên 14% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 75%
đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cán bộ chuyên môn
được quy hoạch theo giai đoạn 2010- 2015 và 2015 - 2020
đảm bảo đủ số lượng và có chất lượng để kế thừa. Đảng bộ
xã kiểm điểm nghiêm túc theo tinh thần nghị quyết đề ra,
thấy được những ưu điểm để phát huy, nhìn nhận những
khuyết điểm, hạn chế để xây dựng kế hoạch khắc phục, góp
phần ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, tạo sự chuyển biến. Mỗi đảng
viên nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu.
- Bộ máy chính quyền
Nhiệm kỳ 2010 -2015, Hội đồng nhân nhân của xã Phú
Hội có 27 đại biểu. Hoạt động được duy trì, phát huy được
vai trò nhiệm vụ của người đại biểu, thực hiện tốt các hoạt
động giám sát, tiếp xúc cử tri, đồng thời tích cực thảo luận
đóng góp ý kiến xây dựng địa phương. Hội đồng nhân dân
xã tổ chức 9 kỳ họp, ban hành 44 nghị quyết, 21 cuộc tiếp
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
xúc nhân dân, giám sát 39 đợt các nội dung: “Quỹ vì người
nghèo”, chế độ đối với đối tượng gia đình chính sách, người
có công, hộ nghèo, công tác tuyển quân, tình hình quản lý
đất công, thu chi ngân sách, bảo vệ môi trường, giải quyết
đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Hoạt động của chính quyền hiệu quả với những đổi
mới, nâng cao chất lượng. Bộ máy chính quyền xã Phú Hội
tiếp tục củng cố, kiện toàn. Nguồn cán bộ được biên chế
đảm bảo số lượng làm việc theo vị trí, chức năng. Đội ngũ
cán bộ thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, quy tắc ứng
xử và ý thức trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ. Cải cách
thủ tục hành chính được thực hiện theo Đề án 30 của Thủ
tướng Chính phủ tạo được sự đồng thuận cao của người
dân, giải quyết theo chế độ một cửa, một cửa liên thông
trên lĩnh vực đất đai. Hoạt động tư pháp triển khai nề nếp,
lịch tiếp công dân của lãnh đạo xã định kỳ (thứ sáu trong
tuần). Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ
duy trì hàng năm, chú trọng quy hoạch cán bộ nguồn và cán
bộ nữ, cán bộ trẻ về trình độ, năng lực. Tổng số cán bộ xã
có 59 người (12 công chức, 11 cán bộ chuyên trách, 16 cán
bộ không chuyên trách, 14 cán bộ ở 04 ấp. Nguồn nhân lực
đạt chuẩn về chuyên môn và chính trị theo quy định với tỷ
lệ 100%. Lực lượng Công an và quân sự có 23 đồng chí.
Cán bộ chuyên môn được quy hoạch theo giai đoạn đảm
bảo đủ số lượng, chất lượng. Nguồn nhân lực trong bộ máy
chính quyền địa phương tham gia học tập: bồi dưỡng trình
308

31.9 Page 309

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
độ lý luận chính trị (2 người học trung cấp, 5 người sơ cấp),
chuyên môn nghiệp vụ, quản lý... (9 người học lớp trình độ
đại học, 19 lượt cán bộ học chuyên môn nghiệp vụ. Các cơ
quan, đơn vị chức năng qua nhận 233 đơn về khiếu nại, tố
cáo và giải quyết theo quy định (hòa giải thành 122 đơn, trả
lời văn bản 10 đơn, chuyển tòa án thụ lý 63 đơn, cơ quan
cấp trên 33 đơn, ...). Công tác hòa giải ở địa bàn cơ sở kịp
thời, đáp ứng yêu cầu, hạn chế tình hình vi phạm pháp luật.
Hoạt động khoa học công nghệ có những chuyển biến nhiều
mặt với việc ứng dụng vào các lĩnh vực, chuyên môn. Ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, công
nghệ thông tin trong quản lý, công tác hành chính, khai thác
thông tin, giáo dục... Vào tháng 9 năm 2014, xã đã tiếp nhận
và bố trí điểm thông tin khoa học công nghệ tại bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả.
Nhiệm kỳ 2015 - 2020, xã Phú Hội có 04 tổ gồm 30
đại biểu hội đồng nhân dân, về sau giảm còn 27 đại biểu do
luân chuyển công tác. Từ đầu nhiệm kỳ, hội đồng nhân dân
phát huy được vai trò của tổ chức và nhiệm vụ người đại
biểu, thực hiện tốt các hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri,
đồng thời tích cực bàn bạc thảo luận trong việc đóng góp ý
kiến xây dựng địa phương. Công tác bầu cử nhân sự đại diện
ở các ấp triển khai tốt. Hội đồng nhân dân xã tổ chức thành
công 9 kỳ họp, ban hành tổng cộng 54 nghị quyết, thực hiện
tốt kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động của chính quyền.
Thường trực và các ban của hội đồng giám sát các nội dung
như: thực hiện chế độ đối với đối tượng gia đình chính sách,
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
có công, hộ nghèo, công tác tuyển quân, quản lý nhà nước
về đất đai, thu chi ngân sách, bảo vệ môi trường, giải quyết
đơn thư khiếu nại, tố cáo, quản lý xây dựng cơ bản, tình hình
an ninh trật tự, xử phạt vi phạm hành chính,... Phối hợp với
các cấp, tổ chức 25 cuộc tiếp xúc với 900 lượt cử tri tham
dự, ghi nhận 355 ý kiến của người dân, xử lý theo quy định.
Bộ máy nhân sự của Ủy ban nhân dân xã đi vào hoạt
động có nề nếp, kế thừa nguồn nhân lực có kinh nghiệm
trong thực tiễn. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính (Đề
án 30 của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình cải cách hành
chính giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh Đồng Nai) đem lại hiệu
quả tích cực, được sự đồng thuận cao của người dân, đơn
giản hóa các thủ tục hành chính, thực hiện một cửa, một cửa
liên thông hiện đại. Từ năm 2017 đến nay, xã Phú Hội triển
khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 2, mức độ 3 với 6 loại
thủ tục hành chính gồm đăng ký khai sinh, đăng ký lại khai
sinh, đăng ký giám hộ... giảm thời gian cho người dân. Các
thủ tục hành chính được công khai hoá và được giải quyết
nhanh gọn, chính xác. Tại trụ sở xã niêm yết công khai các
thủ tục hành chính để nhân dân biết và thực hiện. Những
công trình xây dựng đường giao thông nông thôn đều được
tổ chức họp dân để bàn bạc, thống nhất thực hiện. Xã duy
trì tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin vào cải cách hành
chính như: áp dụng hệ thống dịch vụ công trực tuyến, kết
nối phần mềm một cửa với các phần mềm khác của các đơn
vị, sử dụng có hiệu quả phần mềm quản lý văn bản. Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả của xã đã xử lý 39.790 hồ sơ, trong
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
đó, đã giải quyết đúng hạn 39.559 hồ sơ (chiếm 99,41%), trễ
hạn 231 hồ sơ (chiếm 0,58%). Các hồ sơ thông thường khác
được giải quyết cho người dân trong ngày, đảm bảo đúng và
trước thời gian quy định.
Nguồn cán bộ, công chức xã được bố trí đảm bảo số
lượng theo nghị định 92 của Chính phủ. Đội ngũ cán bộ
luôn thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn,
rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, quy tắc ứng xử
trong giao tiếp nhằm phục vụ tốt khi người dân đến liên hệ.
Hiện nay, 100% cán bộ, công chức xã đạt chuẩn về trình độ
chuyên môn và trình độ lý luận chính trị theo quy định. Cán
bộ không chuyên trách của xã bảo đảm năng lực thực hiện
nhiệm vụ. Hoạt động tư pháp triển khai nề nếp. Công tác
tiếp dân theo định kỳ và sự phân công trách nhiệm cụ thể.
Đảng ủy xã Phú Hội lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra các biện pháp
thực hiện có hiệu quả thực hành tiết kiệm, phòng chống
tham nhũng, lãng phí trên các lĩnh vực qua sinh hoạt chi bộ,
tuyên truyền giáo dục, vận động và nêu gương điển hình.
Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, xã tiếp nhận 233 đơn, hòa giải
thành 122 đơn, trả lời bằng văn bản 10 đơn, không thành 96
đơn (chuyển tòa 63 đơn, chuyển cấp huyện 33 đơn), còn tồn
03 đơn đang tiếp tục xác minh giải quyết. Đối với công tác
hòa giải ở ấp, hàng năm đều đạt trên 50%.
- Hệ thống chính trị
Mặt trận và các đoàn thể của xã đổi mới về nội dung,
phương thức hoạt động theo hướng chất lượng và hiệu quả.
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Hệ thống tổ chức và các đoàn thể từ xã đến ấp được củng
cố, nâng cao chất lượng. Qua tuyên truyền, vận động, đã
phát huy vai trò tập hợp lực lượng, phối hợp thống nhất
hành động hưởng ứng, thi đua lao động sản xuất, phát triển
kinh tế giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội.
Hệ thống chính trị của xã Phú Hội triển khai qui chế
dân chủ cơ sở1, quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã
hội, quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng Chính quyền đến với các tầng lớp nhân dân.
Mặt trận và đoàn thể luôn tăng cường và phát huy tốt vai trò,
chức năng giám sát và phản biện xã hội, thông qua nhiều
hình thức, nội dung thiết thực. Với phương châm “Gần dân,
sát dân, nghe dân nói, làm dân tin”, hệ thống chính trị bám
sát địa bàn sơ sở cấp ấp, nắm bắt tâm tư nguyện vọng nhân
dân và phản ánh với cấp ủy, chính quyền giải quyết. Khối
vận tổ chức tốt các buổi tọa đàm với nhân dân tại tại xã, ấp;
thu hút hằng trăm lượt người tham dự, nhận được nhiều ý
kiến đóng góp để xây dựng, phát triển địa phương.
Công tác Dân vận của Đảng tiếp tục được đổi mới và
đi vào chiều sâu, phong trào thi đua “Dân vận khéo” triển
khai sôi nổi. Khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng và
phát huy. Bộ máy dân vận, mặt trận và các đoàn thể không
1  Pháp lệnh 34 về thực hiện Qui chế dân chủ cơ sở ở xã phường, thị trấn
của UB Thường Vụ Quốc hội 11 (ban hành ngày 20-4-2007).
312

32.3 Page 313

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
ngừng được củng cố, kiện toàn và phát huy hiệu quả. Tỷ lệ
tập hợp của các đoàn thể đều đạt 87% trở lên, riêng Đoàn
Thanh niên 50%, Hội Liên hiệp thanh niên đạt 65%. Tỷ lệ
đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt thường xuyên đạt trên
80%. Tỷ lệ đoàn viên, hội viên nòng cốt đảm bảo xây dựng
đạt trên 45%. Ở địa phương, xuất hiện nhiều mô hình tiêu
biểu với hình thức câu lạc bộ: Phụ nữ bảo vệ môi trường,
tham gia công tác từ thiện, chăm sóc gia đình chính sách,
neo đơn... Cuộc vận động phụ nữ xây dựng “Gia đình 5
sạch, 3 không” tiếp tục được duy trì gắn với các hoạt động
xây dựng nông thôn mới cuốn hút nhiều hội viên tham gia.
Hội phụ nữ làm tốt công tác phổ biến pháp luật đến hội viên:
bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình... Hàng năm,
hoạt động Mặt trận, đoàn thể được đánh giá chất lượng vững
mạnh, không có đoàn thể yếu kém.
Từ năm 2015 đến năm 2020, công tác dân vận tiếp tục
được quan tâm với sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy. Việc tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được thực hiện
tốt. Nhân lực của hệ thống chính trị xã, ấp được nâng cao về
chất lượng đội ngũ, đủ số lượng theo quy định, phân công
nhiệm vụ cụ thể.
Mặt trận tổ chức và phát động nhiều phong trào thi đua
gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương: Phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị
văn minh” gắn với việc đẩy mạnh: “Học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Chung sức
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
xây dựng Nông thôn mới”... Khối vận tham mưu tổ chức tốt
11 buổi tọa đàm, đối thoại với nhân dân tại xã, trụ sở 4 ấp
nhân ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng, thu hút
457 lượt người tham dự. Người dân nêu nguyện vọng, đóng
góp nhiều ý kiến trong các vấn đề môi trường, an toàn giao
thông, xây dựng cơ bản, xây dựng và hoạt động của thiết
chế văn hóa... Năm 2019, thực hiện 2 cuộc giám sát và phản
biện xã hội, 3 cuộc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu
cấp ủy đảng, chính quyền với nhân dân với nội dung: công
tác quản lý, khai thác tài nguyên khoáng sản, an ninh trật
tự - vệ sinh môi trường, công tác xây dựng nông thôn mới
nâng cao.
Mặt trận và các tổ chức thành viên tập trung nâng cao
về chất lượng, đa dạng hóa về nội dung, phương thức hoạt
động gắn với phương châm hướng về địa bàn dân cư. Các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước phát động
đã đi vào chiều sâu, mang tính thiết thực, đem lại hiệu quả
kinh tế, xã hội. Khối vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
không ngừng được củng cố, kiện toàn và phát huy hiệu quả
hoạt động. Tỉ lệ tập hợp của các đoàn thể đều đạt 80% trở
lên, riêng Đoàn Thanh niên 55%. Tỷ lệ đoàn viên, hội viên
tham gia sinh hoạt thường xuyên đạt 85%. Tỷ lệ đoàn viên,
hội viên nòng cốt đạt 60%. Công tác dân tộc, tôn giáo theo
đúng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng,
nhà nước. Hàng năm, địa phương tổ chức tốt ngày hội “Đại
đoàn kết toàn dân tộc” ở khu dân cư thu hút đông đảo nhân
dân tham gia. Trong quần chúng, xuất hiện nhiều mô hình
314

32.5 Page 315

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
mang lại hiệu quả kinh tế cao như: mô hình nuôi gà Đông
Tảo, hỗ trợ con giống, vật nuôi cho các hộ nghèo đem lại
hiệu quả kinh tế, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người
lao động. Khối đại đoàn kết toàn dân ở Phú Hội được tăng
cường, phát huy vai trò tích cực của các tầng lớp nhân dân
trong các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nông thôn
mới gắn với phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2. Thành tựu trong phát triển, xây dựng Nông thôn
mới (2015 - 2020)
- Lĩnh vực kinh tế
Năm 2015, sau 5 năm thực hiện những giải pháp trong
phát triển kinh tế, xã Phú Hội đạt được những kết quả tích
cực. Với những giải pháp phù hợp về kinh tế, được thực thi
từ đầu nhiệm kỳ, cơ cấu kinh tế của địa phương đã phát triển
theo hướng Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp (44%),
Thương mại - dịch vụ (41%) và nông nghiệp (15%). Bình
quân thu nhập của người dân địa phương tăng lên từ 15 triệu
đồng năm 2010 lên 30 triệu đồng/người/năm 2015. Công
tác thu chi, điều hành ngân sách hiệu quả, đảm bảo nguyên
tắc tài chính, thực hành tiết kiệm. Hàng năm, đều đạt tỷ lệ
và vượt chỉ tiêu trên giao từ 10 - 50% (năm 2010 đạt 141%,
năm 2011 đạt 152%, năm 2012 đạt 134%, năm 2013 đạt
185%, năm 2014 đạt 119%).
Trong quy hoạch phát triển, xã Phú Hội thực hiện theo
chuẩn mới. Cơ sở vật chất của địa phương: mạng lưới giao
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thông, điện, trường học các cấp, trạm xá, trung tâm văn hóa
- thể thao xã, nhà văn hoá, bưu điện và hệ thống thông tin
liên lạc, chợ, nghĩa trang, địa điểm xử lý rác, hệ thống cấp
nước sạch, hệ thống thoát nước thải, công viên cây xanh, ...,
được đầu tư và quy hoạch trong tổng thể kinh tế - xã hội,
dự án của huyện Nhơn Trạch. Về công nghiệp, xây dựng cơ
sở vật chất, gần 1/3 diện tích đất của xã đã được quy hoạch
với hơn 40 doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp I, II,
V, trong đó có khoảng 500ha đã hoạt động. Quy hoạch phát
triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện
có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt
đẹp. Trên địa bàn xã đã có 10 dự án quy hoạch khu dân cư
nông thôn với tổng diện tích 96,34 ha1.
Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất, hàng năm xã Phú
Hội lập kế hoạch sử dụng đất theo quy định, đầu tư cơ sở
hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Kết cấu hạ tầng giao
thông nông thôn có bước phát triển. Xã Phú Hội nâng cấp
và xây dựng mới 28 công trình đường giao thông nông thôn
bằng kết cấu bê tông xi măng (dài 6,5km với 5,776 tỷ đồng).
Kinh phí thực hiện từ ngân sách nhà nước hỗ trợ 3.748 tỷ
đồng và nhân dân đóng góp 2.028 tỷ đồng. Các tuyến đường
huyện và đường trục ấp đảm bảo tiêu chuẩn. Hệ thống giao
thông đảm bảo về độ cứng hóa, không lầy lội trong mùa
mưa nhưng vẫn còn một số đường ngõ, xóm còn hẹp, chưa
1  Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai phê duyệt tại quyết định số 1779/QĐ-
UBND ngày 8-7-2010.
316

32.7 Page 317

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
chuẩn hóa kỹ thuật. Hai tuyến giao thông đường thủy qua
địa bàn xã (suối liên ấp xóm Hố - Đất Mới dài 1,2km, sông
Vàm Môn dài 2,5km) thuận lợi cho ghe thuyền lưu thông
vận chuyển hàng hóa, nông sản. Xã thực hiện được 13 tuyến
đường điện hạ thế với kinh phí 800 triệu đồng, nâng tổng số
hộ sử dụng điện đến nay đạt 99,5%, tăng 2,5% so với năm
2010. Địa phương bố trí chợ nằm trong khu tái định cư trong
kế hoạch và chuẩn bị các phương án đầu tư khi giải phóng
mặt bằng.
Thương mại - dịch vụ phát triển đều trong cơ cấu kinh
tế của địa phương, với 332 hộ kinh doanh ở nhiều ngành
(xây dựng, dịch vụ - ăn uống, vận tải, hộ buôn bán nhỏ lẻ;
đặc biệt có 59 cơ sở kinh doanh nhà trọ góp phần cơ bản giải
quyết nhu cầu về nhà ở cho công nhân).
Thực hiện chương trình quốc gia, Đảng ủy xã triển
khai và thực hiện các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Toàn xã
có 115ha đất trồng lúa, hàng năm vận động nhân dân gieo
sạ lúa vụ Hè thu và vụ Đông xuân đạt 100%, năng suất bình
quân 8-9 tấn/ha/năm. Các loại cây trồng khác được duy trì,
trồng sen, các hộ dân tham gia trên diện tích 35ha, (năng
suất 3,5-4 tấn/ha); trồng mì với diện tích 75ha (sản lượng
25 - 28 tấn/ha); trồng điều có 12ha (sản lượng 5 - 6 tạ/ha) và
cây ăn trái gồm 40ha (sản lượng 6 - 7 tấn/ha). Chăn nuôi của
xã chủ yếu tập trung gia súc, gia cầm theo từng hộ gia đình.
Tình hình dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng... xuất
hiện đã ảnh hưởng đến chăn nuôi trong mỗi năm. Bình quân
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
dao động tăng giảm từ 15 đến 16 ngàn con (đạt 70 - 80%
kế hoạch năm). Tổng số lượng đàn bò từ 450 đến 500 con,
đàn heo 1.200 đến 1300 con, gà từ 4000 đến 4500 con, vịt
từ 12.000 đến 13.000 con.
Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
được quan tâm với việc tổ chức kiểm kê quỹ đất, thực hiện
theo quy trình khi có chuyển đổi mục đích sử dụng, giải
phóng mặt bằng, thực hiện các dự án xây dựng được phê
duyệt. Xã phối hợp với cơ quan chuyên môn khảo sát, đo
đạc lập lại bản đồ địa chính, tổ chức đăng ký cấp mới giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đạt 100%, cấp đổi
tăng diện tích được 634/661 thửa (tồn 27 thửa), cấp phát đổi
giấy được 1.540/1.933 trường hợp (tồn 393 trường hợp).
Những trường hợp chưa giải quyết được đề xuất lên huyện
nghiên cứu, giải quyết. Dự án cải tạo nâng cấp tỉnh lộ 25A
(đường 769) qua xã Phú Hội được triển khai. Tài nguyên
chung trên địa bàn được quản lý chặt chẽ, ngăn ngừa, hạn
chế tối đa các trường hợp khai thác trái phép. Nhân dân
được tuyên truyền trong bảo vệ môi trường và đăng ký thu
gom rác thải với Hợp tác xã Nhân Hòa. Toàn xã có 1.102 hộ
đăng ký và 1.625 hộ tự xử lý rác đạt 99,5%, riêng khu vực
cho thuê trọ có 1.815 phòng đăng ký. Vệ sinh môi trường ở
khu dân cư được người dân tích cực hưởng ứng. Những hộ
chăn nuôi đăng ký và xây dựng hầm Biogas theo tiêu chuẩn,
hầm chứa bằng gạch kiên cố.
Đến năm 2020, thu nhập bình quân tăng từ 30 triệu
đồng/người/năm (năm 2015) lên 60 triệu đồng/người/năm.
318

32.9 Page 319

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
Nguồn ngân sách của địa phương đảm bảo theo kế hoạch:
năm 2015 đạt 148%; năm 2016 đạt 155%; năm 2017 đạt
113%; năm 2018 đạt 127%; năm 2019 đạt 286%.
Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây
dựng nông thôn mới của xã đạt những kết quả, tạo cơ sở
trong phát triển kinh tế - xã hội chung. Toàn xã có 195ha đất
trồng lúa, hàng năm vận động nhân dân gieo sạ lúa vụ Hè
thu và vụ Đông xuân đạt 100%, năng suất bình quân 8-9 tấn/
ha/năm. Người dân trồng sen theo vụ đạt 47ha, năng xuất
3,5 - 4 tấn/ha. Về trồng mì có 45ha, sản lượng 26 - 30 tấn/
ha. Vườn cây ăn trái với tổng diện tích 40ha, sản lượng 6-7
tấn/ha. Diện tích trồng trà đặc sản Phú Hội đạt 7,5ha, thành
lập Tổ hợp tác trồng trà, đăng ký thương hiệu. Chăn nuôi
chủ yếu tập trung chăn nuôi gia súc, gia cầm theo từng hộ
gia đình. Do tình hình những bệnh dịch xuất hiện nhiều, kéo
dài... cùng với diện tích đất đai phục vụ chăn nuôi bị giảm
đầu tư quy hoạch, xây dựng phát triển khu công nghiệp, đô
thị đã có những tác động, ảnh hưởng đến số lượng gia cầm,
gia súc giảm nhiều. Bình quân dao động tăng giảm từ 15
đến 16 ngàn con, đạt 70 - 80% kế hoạch/ năm; trong đó, đàn
bò từ 500 con xuống 450 con đến 380 đàn heo từ 1.300 con
xuống 1.100 con, đàn gà từ 14.000 đến 15.000 con, vịt từ
16.000 đến 19.000 con. Có những thời điểm, do dịch bệnh,
các hộ dân được khuyến khích không chăn nuôi.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở lĩnh vực theo hướng
nâng cao chất lượng, thực hiện tốt với sự hướng dẫn, hỗ trợ
về khoa học kỹ thuật của trạm bảo vệ thực vật, khuyến nông,
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thú y.. Bên cạnh các mô hình trồng lúa giống mới, nuôi dê,
bò sữa, gà ... trước đây được duy trì, xuất hiện mô hình liên
kết sản xuất, kinh doanh giỏi, mang lại hiệu quả kinh tế. Về
kinh tế hộ gia đình tiêu biểu trong sản xuất, kinh doanh có:
Mô hình sinh vật cảnh có hộ ông Huỳnh Văn Hoàng (ấp
Xóm Hố), Phạm Văn Dung (ấp Phú Mỹ 1); kinh tế vườn -
ao - chuồng có hộ Nguyễn Văn Đức (ấp Xóm hố) trồng tre
tầm vông lấy măng, cỏ chăn nuôi bò sinh sản và nuôi cá,
ếch...); nuôi gà Đông Tảo, gà Hmông có hộ Cao Vĩnh Phát
(ấp Xóm Hố); chăm nuôi bò sinh sản có họ ông Nguyễn
Quốc Thông (ấp Đất Mới); kinh doanh hoa, cây giống có hộ
Nguyễn Xuân Trưởng (ấp Phú Mỹ 2); kinh doanh trà Phú
Hội có hộ ông Đặng Thanh Phong, Nguyễn Quang Trí (ấp
Phú Mỹ 2)... đem lại lợi nhuận, thu nhập ổn định, tạo việc
làm cho nhiều người.
Các ngành nghề được khuyến khích đầu tư phát triển
và đa dạng hóa loại hình, sản phẩm dịch vụ song hành với
các hộ làm nghề truyền thống (bún, bánh tráng, bánh bèo,
chế biến chè...) giữ nét đặc trưng của địa phương. Tiểu thủ
công nghiệp chủ yếu là gia công cơ khí, gia công đồ gỗ, sản
xuất bánh mì, làm bún, ... góp phần giải quyết tình trạng lao
động phổ thông, thu nhập hộ kinh tế.
Cơ sở vật chất trường học đạt chuẩn theo quy định,
diện tích, khuôn viên rộng. Phòng học được sửa chữa, nâng
cấp, trang thiết bị đảm bảo dạy và học. Về khối mẫu giáo,
trường Mẫu giáo Phú Hội chưa đảm bảo diện tích, thiếu
phòng học, trang thiết bị. Kết cấu hạ tầng giao thông nông
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thôn có bước phát triển với việc nâng cấp và xây dựng mới
30 công trình đường giao thông nông thôn bằng kết cấu
bê tông xi măng (tổng chiều dài 7,4km, kinh phí thực hiện
8,078 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước, nhân dân đóng
góp. Hệ thống thủy lợi được tập trung cải tạo, nâng cấp cơ
bản đủ năng lực phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi
khí hậu, đáp ứng yêu cầu tưới tiêu, phục vụ sản xuất, dân
sinh. Các tuyến mương đều được tu bổ, củng cố vững chắc
hơn. Từ ngân sách của huyện Nhơn Trạch, xã được đầu tư
xây dựng 4 tuyến mương thoát nước kết cấu bê tông cốt thép
(chiều dài 1.400m với tổng kinh phí trên 17 tỷ đồng). Mạng
lưới điện được duy tu và thực hiện 13 tuyến đường điện hạ
thế, nâng tổng số hộ sử dụng điện đạt 99,5% (tăng 2,5% so
với năm 2015).
Về thương mại dịch vụ có bước phát triển đều trong cơ
cấu kinh tế của địa phương với 442 hộ kinh doanh bao gồm
các ngành: xây dựng, dịch vụ - ăn uống, vận tải, hộ buôn
bán nhỏ lẻ và 94 cơ sở kinh doanh nhà trọ. Trên địa bàn xã
hiện có 01 điểm mua bán tập trung ở ấp Phú Mỹ I, 1 điểm
họp chợ trên địa bàn ấp Đất Mới. Hướng phát triển với quy
mô lớn, gần 1/3 diện tích đất của xã được quy hoạch với hơn
45 doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp chiếm diện tích
khoảng 500ha đã đi vào hoạt động và 55 cơ sở sản xuất.
Tài nguyên ở địa phương được quản lý chặt chẽ hơn,
hạn chế tối đa các trường hợp khai thác trái phép. Hoạt động
bảo vệ môi trường được tuyên truyền sâu rộng trong nhân
dân, vận động các khu dân cư thực hiện tốt vệ sinh, thu gom
321

33.2 Page 322

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
rác thải với hợp tác xã Thương mại - dịch vụ Phú Hội. Toàn
xã có 2.140/2.639 hộ đăng ký và 498 hộ tự xử lý rác (tỷ lệ
99%), có 3.325 phòng trọ thực hiện đăng ký, (tỷ lệ 100%).
Từ kết quả xây dựng Nông thôn mới đạt được năm 2015, xã
tiếp tục thực hiện các tiêu chí nông thôn mới nâng cao, kết
quả đến nay đạt 15/19 tiêu chí, còn 4 tiêu chí chưa đạt về
giao thông, trường học, chợ nông thôn và môi trường. Quá
trình xây dựng Nông thôn mới góp phần quan trọng trong
thay đổi tích cực diện mạo, cơ sở vật chất trên nhiều mặt cho
địa phương, đời sống nhân dân ổn định.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Trong nhiệm kỳ 2010 đến năm 2020, từ sự đầu tư về
cơ sở vật chất và nỗ lực của địa phương, văn hóa, xã hội,
giáo dục của Phú Hội có những chuyển biến, phát triển.
Hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin, truyền thanh của
xã hoạt động hiệu quả, đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chính
trị trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của đảng, nhà
nước, thông tin của địa phương kịp thời và đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ về đời sống tinh thần đến với nhân dân. Hàng
năm, hệ thống đài truyền thanh xã duy trì chế độ hoạt động
định kỳ. Từ năm 2010 - 2015, đài truyền thanh hoạt động
được 5.478 giờ, chuyển tải được 2.953 tin với nội dung đa
dạng. Các hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động thể dục thể
thao được quan tâm. Các giải thi đấu thể dục - thể thao, văn
hóa - văn nghệ chào mừng kỷ niệm các ngày lễ, sự kiện
chính trị trọng đại của đất nước và của địa phương tạo nên
sức hút trong các tầng lớp nhân dân. Tháng 6-2013, xã tổ
322

33.3 Page 323

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
chức thành công đại hội thể dục, thể thao với 6 bộ môn thi
đấu, hơn 200 vận động viên, cổ động viên tham gia. Mô hình
câu lạc bộ văn hóa, thể thao được thành lập, thu hút nhiều
thành viên tham gia, duy trì hoạt động tốt (dưỡng sinh, bóng
đá, bóng chuyền, cờ tướng).
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” đi vào chiều sâu. Toàn xã có 4/4 ấp được công nhận
ấp văn hóa, 98,57% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hóa (tăng 2,79% so với năm 2010) và 100% cơ quan
đạt chuẩn văn hóa. Di tích đình Phú Mỹ được bảo vệ tốt với
ban quản lý, phát huy hiệu quả với thế hệ trẻ trong các hoạt
động từ bảo tồn, quảng bá, học tập lịch sử địa phương, sinh
hoạt về nguồn.
Ngành giáo dục ở địa phương có bước phát triển khá
toàn diện. Cơ sở vật chất trường lớp trên địa bàn Phú Hội
từ Mầm non đến trung học cơ sở. Tháng 10-2014, xã Phú
Hội tiếp nhận cơ sở trường trung học cơ sở từ bàn giao của
Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện. Trường Tiểu học
của xã có diện tích, khuôn viên trường rộng, các phòng hiện
có đạt chuẩn theo quy định, trang thiết bị đảm bảo cho việc
dạy và học nhưng tổng thể, còn thiếu hàng rào, một số phòng
chức năng như: phòng hội trường, phòng thí nghiệm, phòng
giáo dục nghệ thuật, phòng y tế, phòng vi tính. Trường Mẫu
giáo Phú Hội có 5 phòng học, so với yêu cầu và tiêu chuẩn
chưa đáp ứng; trong đó phòng sinh hoạt chung, phòng vệ
sinh, sân vườn, chưa đủ diện tích và một số phòng phục
vụ tạm bợ, thiếu trang thiết bị. Vượt qua những khó khăn,
323

33.4 Page 324

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
đội ngũ giáo viên của các trường đảm bảo trong giảng dạy.
Hàng năm, số lượng trẻ em mẫu giáo 5 tuổi ra lớp, học sinh
vào lớp một đạt tỷ lệ cao. Chương trình bậc tiểu học đạt tỷ
lệ 100%. Học sinh khá giỏi hàng năm đạt trên 60%. Các
phong trào hoạt động trong nhà trường thực hiện tốt. Xã
Phú Hội tiếp tục duy trì kết quả xóa mù chữ - phổ cập giáo
dục bậc trung học cơ sở, tiểu học và phổ cập giáo dục cho
trẻ mầm non 5 tuổi. Đồng thời tiếp tục thực hiện phổ cập
giáo dục bậc Trung học phổ thông. Trung tâm học tập cộng
đồng hoạt động đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội học tập
cho người dân. Hội khuyến học đã thực hiện tốt phong trào
“Khuyến học, khuyến tài”, xây dựng quỹ khuyến học, hỗ trợ
cho nhiều học sinh, sinh viên.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân thực
hiện tốt. Trạm y tế được đầu tư và bổ sung thêm trang thiết
bị trong hoạt động. Cán bộ, nhân viên y tế được biên chế
đủ, đảm bảo công tác khám và điều trị ban đầu. Hàng năm,
trạm khám và điều trị bệnh cho hơn 27.104 lượt người dân.
Các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng triển khai kịp
thời. Tỷ lệ tiêm chủng trẻ em trong độ tuổi quy định hàng
năm đạt 100% kế hoạch. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5
tuổi giảm xuống còn 8,79% (giảm 4,11% so với năm 2010).
Phòng chống dịch bệnh, các bệnh xã hội, bệnh truyền nhiễm
được tuyên truyền và phòng ngừa, theo dõi chặt chẽ. Công
tác dân số kế hoạch hóa gia đình được chú trọng thực hiện,
hàng năm đã tổ chức vận động các cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ thực hiện biện pháp tránh thai, tỷ lệ tăng dân số
324

33.5 Page 325

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tự nhiên giảm xuống còn 0,91%. Trạm y tế hàng năm được
công nhận đạt chuẩn Quốc gia về Y tế. Vệ sinh an toàn thực
phẩm được quan tâm, mỗi năm tổ chức từ 2 đến 3 đợt tuyên
truyền, kiểm tra đối với các hộ kinh doanh.
Địa phương thực hiện hiệu quả, kịp thời về chính sách
xã hội. Toàn xã hiện có 366 hộ gia đình chính sách. Xã tiếp
tục lập hồ sơ đề nghị nhà nước xét phong tặng danh hiệu
Mẹ Việt Nam anh hùng (phong tặng 1 trường hợp, truy tặng
25 trường hợp). Năm 2015, toàn xã có 48 mẹ Việt Nam
anh hùng, 2 bà mẹ còn sống, được phụng dưỡng, chăm sóc
chu đáo. Trong nhiệm kỳ, xã xây mới 53 nhà tình thương
(gần 1,2 tỷ đồng), nâng tổng số nhà tình thương đến nay là
105 căn và xây mới 15 căn, sửa chữa 40 căn nhà tình nghĩa
(1,174 tỷ đồng). Quỹ “Vì người nghèo”, “Quỹ đền ơn đáp
nghĩa” được vận động với sự đóng góp kinh phí nhiều, hỗ
trợ đúng đối tượng, chính sách, giúp người dân vượt qua
những khó khăn, ổn định cuộc sống.
Thực hiện chương trình đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn, xã đã kết hợp các trung
tâm chức năng mở các lớp dạy nghề cho người lao động.
Những ngành nghề lao động cơ bản được đào tạo: cắt may,
uốn tóc, trang điểm, tin học và sửa chữa máy tính... Nông
dân được tham gia các đợt tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
khuyến nông. Giải quyết việc làm cho người lao động được
quan tâm, nhất là lực lượng lao động trẻ. Chính quyền giới
thiệu việc làm cho hơn 1.000 lao động. Lực lượng dân quân
du kích, bộ đội xuất ngũ được chính sách hỗ trợ theo chế
325

33.6 Page 326

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
độ, tiêu chuẩn và tạo thuận lợi trong giải quyết việc làm.
Hoạt động tín dụng đảm bảo theo nhu cầu vay vốn của nhân
dân, xét duyệt luôn đúng dự án, đúng đối tượng, tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân vay vốn. Nhiều hộ dân được
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện cho
vay trên 20 tỷ đồng để sản xuất, kinh doanh. Các hộ nghèo
được vay vốn làm ăn thông qua các mô hình tổ liên đới do
các đoàn thể thực hiện (trợ vốn cho người nghèo của Hội
Phụ nữ; chương trình “Hố xí, nước sạch”, hỗ trợ sinh viên
của Hội Cựu chiến binh..). Các phong trào địa phương phát
động góp phần tích cực trong công tác xóa đói giảm nghèo
của xã Phú Hội. Trong năm 2010 có 75 hộ nghèo, đến cuối
năm 2014 giảm còn là 14 hộ, đạt tỷ lệ 0,44%. Công tác kiểm
tra, phòng chống tệ nạn xã hội luôn được quan tâm chỉ đạo
và tổ chức thực hiện tốt. Đội kiểm tra liên ngành 814 xã tiến
hành kiểm tra thường xuyên các điểm dịch vụ Internet, quán
cafe để ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Trên cơ sở xây dựng và đạt chuẩn trong xây dựng
Nông thôn mới, xã Phú Hội tiếp tục duy trì bước phát triển
trên lĩnh vực văn hóa - xã hội. Đến năm 2020, toàn xã đạt
những thành quả và đặt cơ sở nền tảng trong xây dựng nông
thôn mới nâng cao đối với các tiêu chí văn hóa, giáo dục, y
tế, xã hội giai đoạn trước đó còn hạn chế.
Chất lượng công tác tuyên truyền ngày càng được nâng
lên. Đài truyền thanh hoạt động được 6.040 giờ, chuyển tải
được 3.625 tin. Hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao
luôn được tổ chức hiệu quả. Các câu lạc bộ thể dục, thể thao
326

33.7 Page 327

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
của xã duy trì. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
Nông thôn mới, đô thị văn minh” từng bước đi vào chiều
sâu, 4 ấp duy trì danh hiệu ấp văn hóa, 99,39% số hộ gia
đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa (tăng 0,39% so với năm
2015) và 100% cơ quan đạt chuẩn văn hóa. Cơ sở vật chất
trường học từng bước được trang bị đáp ứng nhu cầu dạy và
học tập. Các phong trào hoạt động trong nhà trường tổ chức
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Thành quả xóa mù
chữ - phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở, tiểu học và phổ
cập giáo dục cho trẻ mầm non 5 tuổi được giữ vững, tiếp tục
thực hiện phổ cập giáo dục bậc THPT.
Hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
được duy trì trên thành quả đã đạt được trong nhiệm kỳ
trước. Công tác phòng chống dịch bệnh, các bệnh xã hội,
bệnh truyền nhiễm được phòng ngừa và quản lý chặt chẽ
cùng với vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm hơn.
Trạm y tế được đầu tư và bổ sung thêm trang thiết bị và cán
bộ, nhân viên đủ theo biên chế. Hàng năm, khám và điều trị
bệnh cho hơn 42.210 lượt người. đáp ứng tốt nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm
xuống còn 0,89%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cân nặng theo
độ tuổi giảm xuống còn 5,9% giảm 1% so với năm 2015.
Toàn xã hiện có 478 hộ gia đình chính sách được quan
tâm, thực hiện chế độ theo quy định. Qua các đợt phong,
truy tặng, hiện xã Phú Hội có 57 Bà mẹ Việt Nam anh hùng
(còn sống 02 mẹ). Trong nhiệm kỳ, đã xây mới được 27 căn
nhà tình thương với tổng số tiền 87 triệu đồng, nâng tổng
327

33.8 Page 328

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
số nhà tình thương đến nay là 132 căn; xây mới 29 căn,
sửa chữa 40 căn nhà tình nghĩa với tổng số tiền 1 tỷ 380
triệu đồng. Vận động quỹ “Vì người nghèo” được 670 triệu
đồng; “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” được 75 triệu đồng. Thực
hiện chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn, xã kết hợp các trung tâm dạy nghề đào tạo
các kỹ thuật: Trồng rau sạch, trồng nấm, cây kiểng..., tập
huấn khuyến nông cho nông dân. Việc giải quyết việc làm
cho người lao động cũng được quan tâm thực hiện thường
xuyên, nhất là lực lượng lao động trẻ. Xã có trên 2.500 lao
động được giới thiệu và tạo việc làm. Người dân được tiếp
cận các nguồn vốn vay trên 20 tỷ đồng để sản xuất, kinh
doanh. Các hộ nghèo được vay vốn làm ăn thông qua tổ liên
đới trong các chương trình của đoàn thể. Từ 71 hộ nghèo
năm 2015, đến cuối năm 2019 giảm còn là 5 hộ, kết quả
phản ánh nỗ lực trong công tác giảm nghèo của địa phương.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Giai đoạn 2010 - 2015, nguồn cán bộ, chiến sĩ trong
công tác xã hội được kiện toàn. Xã đội tổ chức tốt công tác
huấn luyện hàng năm cho lực lượng dân quân, xây dựng kế
hoạch và tổ chức diễn tập chiến đấu trị an đảm bảo an toàn,
mục đích yêu cầu. Thông qua hoạt động của đoàn thể và địa
bàn cơ sở, xã thực hiện tuyên truyền luật Nghĩa vụ quân sự
trong nhân dân. Kế hoạch dự nguồn tuyển quân được tiến
hành chặt chẽ với trường hợp thanh niên dự nguồn (tuổi
17) và độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự (từ 18 - 25) ở địa
phương. Công tác xét duyệt nghĩa vụ quân sự luôn thể hiện
328

33.9 Page 329

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
tính công bằng, đảm bảo tiêu chuẩn. Tuyển quân hàng năm
đều đạt 100% chỉ tiêu trên giao, chất lượng chính trị thanh
niên trúng tuyển tốt. Ban Chỉ huy quân sự xã, lực lượng dân
quân các ấp đảm bảo yêu cầu công tác, phụ trách địa bàn. Xã
tổ chức giáo dục kiến thức quốc phòng cho các đối tượng,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến
tranh nhân dân đi vào chiều sâu mang lại hiệu quả.
Từ năm 2015 đến năm 2020, xã thường xuyên củng cố
chất lượng hoạt động của Ban chỉ huy quân sự, lực lượng
dân quân các ấp đủ sức phụ trách địa bàn, xây dựng và phát
huy tốt chất lượng hoạt động của chi bộ quân sự. Công tác
xây dựng lực lượng dân quân được thực hiện tốt, quân số
154 đồng chí (bình quân đạt 1.46% so với dân số) và tỷ lệ
đảng viên đạt từ 25% trở lên so với quân số. Tổ chức tốt
công tác huấn luyện hàng năm cho lực lượng dân. Tuyên
truyền có hiệu quả luật nghĩa vụ quân sự trong nhân dân,
quản lý chặt chẽ số thanh niên trong độ tuổi là nguồn dự
tuyển trong kế hoạch. Tuyển quân hàng năm đều đạt 100%
chỉ tiêu.
Thực hiện nhiệm vụ an ninh chính trị của xã và chương
trình quốc gia về phòng chống tội phạm, lực lượng an ninh
địa phương đã nỗ lực giữ vững tình hình an ninh, trật tự xã
hội. Cơ quan an ninh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Trong điều kiện địa bàn rộng, tình hình xã hội
có nhiều cư dân từ nơi khác đến sinh sống, điều kiện giao
329

33.10 Page 330

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
thông liên lạc thuận lợi, đội ngũ công an xã, ấp làm việc,
bám sát địa bàn, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ. Với tinh
thần chủ động phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng đối với một
số tội phạm nguy hiểm và bảo vệ tốt địa bàn, an ninh xã triển
khai các đợt cao điểm tấn công, trấn áp các loại tội phạm
gắn với phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Hoạt động tổ nhân dân trên địa bàn duy trì với những
hoạt động nắm bắt tin tức, phát động quần chúng tham gia
phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Trong 5 năm, an ninh
xã đấu tranh và làm rõ 92 vụ với 82 đối tượng phạm pháp
hình sự, quản lý chặt đối tượng giáo dục tại địa phương. Đến
năm 2020, xã thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia
về phòng chống tội phạm trong tình hình mới, phòng chống
ma túy, chủ động phòng ngừa kiềm chế sự gia tăng đối với
một số tội phạm nguy hiểm. Lực lượng an ninh triển khai
các đợt cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm gắn
với phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Nhiều vụ vi phạm xảy ra và được xử lý, làm rõ 192 vụ với
359 đối tượng phạm pháp hình sự. Những vi phạm an toàn
giao thông tăng, có 162 vụ, chết 12 người. Mạng lưới tổ an
ninh nhân dân duy trì, góp phần quan trọng phòng chống
các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Hàng năm đều có nghị
quyết và kế hoạch công tác sát với tình hình thực tế, đảm
bảo tốt công tác bảo vệ đảng, chính quyền.
3. Quy hoạch và định hướng phát triển bền vững
(2020 - 2025)
Trên thành quả đạt được sau quá trình xây dựng nông
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thôn mới với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng
của địa phương, của huyện Nhơn Trạch, xã Phú Hội tiếp tục
hướng đến sự phát triển mang tính bền vững giai đoạn 2025.
Với tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên cùng với truyền
thống cách mạng của quần chúng, những kinh nghiệm quí
báu trong các nhiệm kỳ qua là cơ sở quan trọng cho Đảng
bộ xã Phú Hội khắc phục khó khăn, phát huy những kết quả,
thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ trong nhiệm
kỳ mới gắn với xu thế phát triển chung của Nhơn Trạch.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ VII (nhiệm
kỳ 2020 - 2025) đặt ra: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ xã; đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn
diện; thực hiện tốt và đồng bộ các chính sách an sinh xã
hội; bảo đảm quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội; phấn đấu hoàn thành các tiêu
chí về xây dựng Nông thôn mới; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, tăng cường công tác giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền; tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng xã Phú
Hội anh hùng giàu đẹp, dân chủ, văn minh”1.
Tháng 6-2020, Đại hội Đảng bộ xã Phú Hội đã đưa ra
những giải pháp trên nhiều lĩnh vực để nỗ lực phấn đấu các
chỉ tiêu cụ thể, hoàn thành mục tiêu chung của địa phương
trên từng lĩnh vực.
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Phú Hội nhiệm kỳ 2020 - 2025.
331

34.2 Page 332

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và xây dựng trên
địa bàn, bên cạnh việc mở rộng phát triển các ngành nghề đã
có, khuyến khích đầu tư, tạo hành lang pháp lý để xây dựng
các tổ hợp tác sản xuất. Khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp tư nhân, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối
với kinh tế tư nhân, để các doanh nghiệp tư nhân tuân thủ
đầy đủ quy định của pháp luật. Thực hiện hạ thế các tuyến
đường điện tại các khu vực xa trung tâm, nhằm tạo điều kiện
cho các hộ dân được sử dụng điện được thuận lợi. Tranh thủ
nguồn vốn từ cấp trên, tích cực tuyên truyền vận động nhân
dân đóng góp đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông
nông thôn, đến năm 2025 nâng số đường giao thông trên
địa bàn được bê tông xi măng đạt trên 99%. Mở thêm một
số tuyến đường giao thông cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
phục vụ đi lại của nhân dân.
- Về nông nghiệp: chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù
hợp với thổ nhưỡng và có năng suất cao, áp dụng có hiệu
quả các mô hình cải tạo vườn tạp, vườn chuyên canh theo
hình thức “cuốn chiếu”, thực hiện đến đâu có hiệu quả đến
đó. Phát triển chăn nuôi gắn với bảo vệ môi trường sinh
thái. Vận động thành lập các tổ hợp tác kinh tế, hợp tác xã
có chất lượng, hiệu quả. Thực hiện tốt các điều kiện hỗ trợ
tín dụng, thủy lợi, xây dựng đường nội đồng, điện, dịch vụ
kỹ thuật nông nghiệp, khuyến nông, nhằm phục vụ sản xuất.
Phấn đấu tạo ra “thương hiệu” hàng hóa sản xuất từ nông
nghiệp địa phương. Khuyến khích phát triển chăn nuôi ở
từng hộ gia đình với quy mô phù hợp và đảm bảo vệ sinh
332

34.3 Page 333

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
môi trường. Tiếp tục tuyên truyền, vận động các hộ chăn
nuôi đăng ký tiêm phòng dịch bệnh trên đàn gia súc, gia
cầm. Phát triển đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn. Đồng thời
tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân để huy động nguồn
nhân lực và nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây
dựng, đảm bảo thực hiện các tiêu chí còn lại theo Đề án xây
dựng Nông thôn mới trong thời gian tới.
- Tiếp tục đầu tư mạng lưới thương mại dịch vụ trên
địa bàn, tạo điều kiện phát triển; quan tâm đầu tư xây dựng
chợ, nâng cao chất lượng các dịch vụ...; đồng thời có những
giải pháp tích cực để các hộ mở rộng ngành nghề sản xuất,
kinh doanh. Vận động nhân dân chấp hành tốt chính sách
thuế. Tăng cường các biện pháp chống hàng giả, hàng gian
trên địa bàn, khuyến khích các hộ kinh doanh trên địa bàn
tăng về số lượng cũng như quy mô kinh doanh hàng năm.
- Về tài chính, khai thác có hiệu quả tất cả nguồn thu
ở địa phương, đảm bảo thu đúng, thu đủ đạt và vượt chỉ
tiêu. Thực hiện tốt nguyên tắc thu, chi tài chính theo đúng
luật ngân sách. Phân bổ các khoản chi hợp lý, đúng chế
độ, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm. Dự toán ngân sách
hàng năm đảm bảo cho nhu cầu chi thường xuyên phục vụ
kịp thời nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Thực hiện nghiêm
túc công khai tài chính theo qui định. Tổ chức xét duyệt cho
vay theo đúng đối tượng và sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động các tổ - nhóm tiết kiệm, giúp
nhau làm giàu từ các đoàn thể, mỗi năm đạt từ 500 - 600
triệu đồng.
333

34.4 Page 334

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
- Tăng cường hiệu quả quản lý trong quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường tăng cường. Kiên quyết xử lý dứt điểm
các trường hợp chiếm dụng đất công, khai thác trái phép tài
nguyên ở địa phương. Thực hiện tốt công tác quản lý đất
đai, chỉnh lý biến động đất đai. Phủ xanh đất trống bằng các
loại cây lấy gỗ có giá trị và các loại cây trồng khác, bảo quản
và chăm sóc tốt diện tích rừng hiện có. Tuyên truyền bằng
nhiều phương tiện để người dân nhận thức, chung tay trong
ứng phó, giảm thiểu tác hại từ biến đổi khí hậu. Phát động
các phong trào bảo vệ vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, tạo
mỹ quan xanh - sạch - đẹp sâu rộng, nhiều người tham gia.
- Về phát triển giáo dục đào tạo - khoa học công nghệ:
Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình của phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Đổi mới
công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Đảm
bảo 100% trẻ trong độ tuổi đều được đến trường. Nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đạt chuẩn và
trên chuẩn về trình độ. Giữ vững phổ cập trung học cơ sở,
tiểu học và phổ cập giáo dục cho trẻ mầm non 5 tuổi.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà
nước, quan tâm xây dựng nâng cao chất lượng các chi
đoàn, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà
trường. Thường xuyên giữ mối liên hệ giữa nhà trường, gia
đình và xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ma túy trong học
đường, tăng cường giáo dục ý thức chấp hành luật an toàn
giao thông cho học sinh. Thực hiện tốt vai trò quản lý nhà
nước về giáo dục trong việc huy động, quản lý, sử dụng các
334

34.5 Page 335

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục tại địa phương.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của Trung tâm học tập cộng
đồng, nội dung và hình thức phù hợp với nhu cầu của nhân
dân. Khuyến khích nhân dân tham gia học tập bằng nhiều
hình thức.
- Quan tâm đầu tư các thiết chế thuộc lĩnh vực văn hóa
- xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tuyên truyền chủ
trương, chính sách của đảng, nhà nước. Phát động sâu rộng
các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi
giải trí, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa
bàn, từng bước đem lại cho nhân dân đời sống văn hóa tinh
thần phong phú, lành mạnh. Tổ chức phát triển hoạt động du
lịch gắn với các di tích và ngành nghề truyền thống của địa
phương. Quản lý chặt chẽ các dịch vụ văn hóa, tích cực bài
trừ các tệ nạn xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”.
- Thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân,
các chương trình y tế quốc gia, chương trình tiêm chủng mở
rộng, chống suy dinh dưỡng... cho trẻ em. Bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, y đức, tinh thần trách
nhiệm cho đội ngũ ngành y tế. Tăng cường công tác quản
lý các dịch vụ y tế trên địa bàn, nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh, tích cực phòng chống dịch bệnh, kiểm tra vệ
sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo dõi chặt
chẽ tình hình biến động dân số, tăng cường củng cố mạng
lưới cộng tác viên dân số gia đình và trẻ em, thực hiện tốt
335

34.6 Page 336

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
công tác truyền thông lồng ghép dân số với kế hoạch hóa gia
đình, ổn định tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%.
- Duy trì hiệu quả các chính sách xã hội, tạo điều
kiện để chương trình giảm nghèo ở địa phương hiệu quả,
mang tính bền vững. Sử dụng các nguồn lực xã hội, trợ cấp
giúp đỡ kịp thời trường hợp già cả neo đơn, gia đình khó
khăn. Tập trung giải quyết việc làm cho người lao động và
các chính sách xã hội khác. Nhân rộng điển hình các hộ
sản xuất, kinh doanh giỏi và hỗ trợ nhau trong phát triển
kinh tế. Tiếp tục các chương trình đào tạo nghề lao động
nông thôn cho người lao động, đảm bảo nguồn nhân lực tại
địa phương.
- Về công tác nội chính, quốc phòng - an ninh: Triển
khai thực hiện các kế hoạch đảm bảo an ninh chính trị - trật
tự an toàn xã hội. Tuyên truyền phát động phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống các loại tội phạm
và tệ nạn xã hội. Củng cố, xây dựng lực lượng xã, ấp. Quản
lý tốt tình hình nhân hộ khẩu. Duy trì nghiêm chế độ trực
sẵn sàng chiến đấu từ xã đến ấp. Phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ quân sự quốc
phòng. Thực hiện tốt công tác giao quân hàng năm đạt chỉ
tiêu, chính sách hậu phương quân đội. Tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong cán bộ,
công chức và nhân dân bằng nhiều hình thức. Tăng cường
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
tự giác rèn luyện, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, không tham ô, tham nhũng, lãng phí. Chú
336

34.7 Page 337

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
trọng phối hợp thực hiện kiểm tra đối với các ngành trong
công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, các biểu hiện
tiêu cực trong cán bộ.
- Hoạt động của chính quyền: Phát huy vai trò hoạt
động của hội đồng nhân dân. Củng cố nâng cao chất lượng
hoạt động của ủy ban nhân dân xã. Thực hiện nghiêm quy
chế, hiệu quả cải cách hành chính theo đề án một cửa, một
cửa liên thông hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động quản lý nhà nước. Nâng cao chất lượng hoạt động
của các ấp, các tổ nhân dân và đội dân phòng. Thực hiện tốt
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xã- ấp.
Kiên quyết bài trừ tham nhũng, quan liêu sách nhiễu gây
phiền hà cho nhân dân. Tổ chức thực hiện có hiệu quả quy
ước, hương ước trên địa bàn 4 ấp.
- Công tác Dân vận: Tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục, quán triệt chủ trương, chính sách trong đoàn viên,
hội viên và nhân dân. Nắm bắt diễn biến tư tưởng của đoàn
viên, hội viên và nhân dân, hoạt động tôn giáo trên địa bàn.
Nâng cao vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, nhất
là Khối vận. Chủ động đổi mới phương thức, nâng cao chất
lượng hoạt động, nội dung công tác tuyên truyền, vận động,
phát huy được khối đại đoàn kết.
- Xây dựng Đảng: Tăng cường công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, quán triệt nghị quyết, chỉ thị cho cán bộ, đảng
viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo và cải tiến lề lối làm
337

34.8 Page 338

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
việc của Đảng bộ, phát huy tốt vai trò của từng đồng chí
trong Ban Chấp hành. Chú trọng công tác rà soát, bổ sung
quy hoạch cán bộ xã và kế hoạch đào tạo cán bộ hàng năm,
phấn đấu 100% công chức xã được đào tạo về chuyên môn
và trình độ lý luận chính trị. Duy trì công tác kiểm tra, giám
sát trong Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo chủ đề và
chú trọng nhân rộng điển hình. Tiếp tục thực hiện tốt mô
hình Đảng lãnh đạo làm tốt công tác khoa giáo.
Mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển địa phương,
Đảng bộ xã Phú Hội đều phân tích, đánh giá những nguyên
nhân thắng lợi và hạn chế để đúc kết những bài học kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo. Thành quả của
mỗi nhiệm kỳ được kế thừa, làm nền tảng cơ sở cho các giai
đoạn sau kế thừa và phát huy. Những hạn chế, yếu kém được
Đảng bộ xã nhận diện và có giải pháp khắc phục kịp thời. Sự
giúp đỡ, hỗ trợ của các cấp lãnh đạo từ tỉnh, huyện có vai trò
lớn trong định hướng xây dựng, phát triển của địa phương.
Đảng bộ xã Phú Hội có vai trò quan trọng trong lãnh đạo
toàn diện địa phương thực hiện những giải pháp phù hợp
với tình hình thực tiễn để đạt được mục tiêu đặt ra. Hệ thống
chính trị của xã Phú Hội là chiếc cầu nối quan trọng giữa tổ
chức Đảng, chính quyền và nhân dân trên nhiều mặt, phát
huy được sức mạnh, đồng lòng, chung sức vượt qua những
khó khăn, thách thức để xây dựng địa phương phát triển
vững bền, hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
338

34.9 Page 339

▲back to top


KẾT LUẬN
Phú Hội là địa bàn được khai khẩn sớm của vùng đất
Biên Hòa - Đồng Nai. Những lớp cư dân buổi đầu đã đến
trong bối cảnh xứ Đồng Nai “con chim kêu phải sợ, con cá
vùng phải kinh” để khai khẩn, lập những làng, thôn, xóm,
ấp ban đầu Phú Mỹ, Mỹ Hội... Qua nhiều thời kỳ với những
biến đổi, chuyển dịch của xã hội, cho đến hôm nay, trên địa
bàn Phú Hội có nhiều thành phần tộc người sinh sống với
truyền thống văn hóa phong phú. Với đặc điểm tự nhiên
hạ nguồn sông Đồng Nai, Phú Hội mang tính chất của địa
phương thuần nông và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với diện mạo
đô thị Nhơn Trạch tương lai. Để có được thành quả của ngày
hôm nay là cả một quá trình nỗ lực, đoàn kết của cộng đồng
cư dân địa phương, đặc biệt kể từ khi đất nước thống nhất,
bước vào công cuộc đổi mới, hướng đến sự phát triển “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sống trong cảnh đất nước bị xâm lược, người dân Phú
Hội với lòng yêu nước đã đứng lên bảo vệ quê hương dưới
hình thức của các cuộc đấu tranh tự phát, tổ chức hội kín
yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Được soi rọi
339

34.10 Page 340

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
bởi đường lối cách mạng vô sản, người dân Phú Hội tham
gia các cuộc biểu tình, đấu tranh chống lại ách đô hộ của
thực dân, phong kiến. Khi Long Thành, Nhơn Trạch có tổ
chức cách mạng, quần chúng nhân dân Phú Hội tập hợp
dưới ngọn cờ của Đảng, của mặt trận Việt Minh nổi dậy
giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử
năm 1945. Một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt
Nam khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Thế
nhưng, đất nước Việt Nam đứng trước những thử thách khắc
nghiệt trong bảo vệ nền độc lập dân tộc trước sự xâm lược
của kẻ thù qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo
dài 30 năm (1945 - 1975). Quân dân Phú Hội cùng với Nam
Bộ đi đầu trong kháng chiến chống Pháp xâm lược lần thứ
hai, tiếp tục cùng cả nước trường kỳ kháng chống Pháp cho
đến thắng lợi Điện Biên Phủ với “Lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu” vào năm 1954. Hòa bình, độc lập và thống
nhất đất nước sau 9 năm chống Pháp tưởng chừng sẽ được
thực thi trong ngày Tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp
định Giơ-ne-vơ nhưng bị kẻ thù phá hoại. Đế quốc Mỹ tiến
hành xây dựng chính quyền bù nhìn, can dự vào miền Nam
và mở rộng chiến tranh trên đất nước Việt Nam. Quân dân
Phú Hội nén nỗi đau, chấp nhận hy sinh, phát huy tinh thần
bất khuất “Không có gì quý hơn độc lập tự do” cùng với
cả nước thực hiện cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm. Vượt
qua những khó khăn và cả hy sinh mất mát, quân dân Phú
Hội cùng cách mạng miền Nam, cả nước anh dũng chiến
đấu, làm nên chiến thắng lịch sử vào mùa Xuân 1975 khi
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
hai miền Nam - Bắc thống nhất “non sông cùng một dải”.
Một quá trình đấu tranh kiên cường mà quân dân Phú Hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc thân yêu.
Từ khi đất nước thống nhất, quân dân Phú Hội tiếp
tục cùng cả nước khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng
đời sống mới, chế độ xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng lựa chọn trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã
hội. Chặng đường xây dựng quê hương từ năm 1975 đến
năm 1986, quân dân Phú Hội cũng đứng trước những khó
khăn, thử thách khi của tình hình kinh tế, an toàn xã hội thời
hậu chiến. Đất nước khó khăn bởi nhiều yếu tố cả chủ quan
và khách quan với thực trạng quản lý chưa hiệu quả, quan
liêu bao cấp, sản xuất đình trệ, thiếu hụt hàng hóa, khủng
hoảng lương thực..., bị cấm vận quốc tế, phá hoại bởi các
thế lực phản cách mạng. Quân dân Phú Hội vừa thực hiện
sản xuất, ổn định đời sống và đóng góp sức người, sức của
trong sự nghiệp bảo vệ biên giới Tây Nam, phía Bắc trước
các cuộc xâm lấn của nước ngoài. Từ khi đất nước thực hiện
đường lối đổi mới, sự “cởi trói” trong sản xuất, thực hiện
chính sách mở cửa, đổi mới kinh tế, khắc phục những hạn
chế trong quản lý... đã có những chuyển biến tích cực trong
phát triển. Xã Phú Hội có điều kiện cùng cả nước chuyển
mình, thoát ra những khó khăn và định hướng phát triển đưa
địa phương đi vào quỹ đạo chung của huyện Nhơn Trạch,
của tỉnh Đồng Nai trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
341

35.2 Page 342

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Hai thập niên đầu thế kỷ XXI, trên cơ sở của quá trình
phát triển theo hướng hiện đại hóa nông thôn, xã Phú Hội
đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế, quy hoạch phát triển theo
hướng bền vững. Đồng thuận trong các chủ trương và định
hướng xây dựng quê hương vững chắc trong thời kỳ hội
nhập, Đảng bộ, nhân dân Phú Hội đã hoàn thành xây dựng
Nông thôn mới và tiến tới đạt chuẩn Nông thôn mới nâng
cao. Bộ mặt xã hội của Phú Hội khang trang bởi cơ sở vật
chất được quan tâm, đầu tư xây dựng; đồng thời đời sống
kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế...của người dân được nâng
cao chất lượng. Tình hình an ninh trật tự xã hội, quốc phòng
được ổn định, môi trường sống được thực hiện tốt.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử với những mục tiêu được
đặt ra và nhiệm vụ cụ thể, Đảng bộ Phú Hội đã đóng vai
trò quan trọng trong lãnh đạo quần chúng nhân dân thực
hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng. Những thành quả của địa
phương cho thấy sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc
được phát huy trên nền tảng của tinh thần yêu nước, truyền
thống cách mạng. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống kẻ
thù xâm lược kéo dài 30 năm, quân dân Phú Hội đã gánh
chịu những tổn thất lớn cả sức người, sức của. Người dân
Phú Hội không chỉ trụ vững để vượt qua những đợt “càn
quét, khủng bố”, “chà đi xát lại”, “gom dân và kềm kẹp”
mà còn tham gia trực tiếp, trực diện chiến đấu với kẻ thù
bằng nhiều hình thức: đấu tranh dân sinh, dân chủ, đấu tranh
chính trị, binh vận, tham gia lực lượng vũ trang đánh địch
ngay trên quê hương mình. Ngoài ra, những người con của
342

35.3 Page 343

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
vùng đất “nước Mạch Bà, trà Phú Hội” giàu truyền thống
cách mạng khi tham gia kháng chiến ở những địa phương
khác vẫn một lòng trung kiên, chiến đấu anh dũng vì mục
tiêu, lý tưởng đã chọn. Xã Phú Hội là địa phương có nhiều
bà mẹ được truy tặng, phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ
Việt Nam anh hùng của Nhơn Trạch, của Đồng Nai. Đây
là niềm tự hào, vinh dự của địa phương nhưng cũng phản
ánh của sự hy sinh lớn lao mà người dân Phú Hội trong đấy
tranh chống kẻ thù, bảo vệ quê hương. Lớp cha trước, lớp
con sau “trở thành đồng chí” cùng đấu tranh, cứu nước. Có
nhiều người là chiến sĩ, du kích đã hy sinh khi làm nhiệm vụ
ở địa phương, thậm chí cho đến ngày nay, có những trường
hợp chưa tìm được hài cốt để quy tập. Những bà mẹ là nông
dân chân chất đã trở thành những đầu mối giao liên, cơ sở
cách mạng, mưu trí vượt qua sự kiểm soát gay gắt của địch
chuyển tin tức, hàng hóa, thuốc men cho căn cứ cách mạng.
Những người dân hiền hòa của xóm, ấp đã trở thành những
“chiến sỹ” kiên cường khi đấu tranh chính trị với kẻ thù
được trang bị vũ khí hiện đại. Nhiều người bị địch bắt, tù
đày, tra tấn dã man vẫn kiên trung, chấp nhận đau thương để
bảo toàn cho lực lượng cách mạng. Tất cả những mất mát,
hy sinh mà người dân Phú Hội gánh chịu đã hòa vào trong
trang sử kháng chiến chống ngoại xâm vừa bi thương nhưng
hào hùng của đất Đồng Nai, của đất nước “Đồng Nai là
mảnh đất kiên cường mà biết bao khu rừng, ngọn núi, khúc
sông đã trở thành tên gọi của những chiến công hiển hách”
(Lê Duẩn), trong lòng miền Đông Nam Bộ “Gian lao mà
anh dũng”.
343

35.4 Page 344

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
Ngày nay, xã Phú Hội đã chuyển mình trong sự phát
triển của địa phương, của huyện Nhơn Trạch với nhiều thuận
lợi và cả những khó khăn. Vượt khủng hoảng, yếu kém của
thời bao cấp, đi theo đường lối đổi mới của Đảng năm 1986
trở đi - một chặng đường dài “thay da đổi thịt” và đạt những
thành quả trong xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, nhân
dân Phú Hội đã phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống
cách mạng tiếp tục thực hiện những mục tiêu của Đảng bộ
xã xác định trong từng giai đoạn. Kết quả đạt được cho đến
hôm nay từ tổng hợp của nhiều nguyên nhân, yếu tố; trong
đó có sự phát huy được sức mạnh chung của toàn dân khi
nghị quyết, chính sách của Đảng bộ, chính quyền đi vào
cuộc sống, thể hiện “Ý Đảng, lòng dân”. Sức mạnh quần
chúng nhân dân không chỉ góp phần làm nên chiến thắng,
thành công trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà
tiếp tục trong sự nghiệp xây dựng quê hương để thực hiện
những mục tiêu và tầm nhìn hướng đến tương lai tốt đẹp
hơn trong hoạch định đường lối phát triển của địa phương.
Năm 2020, đại hội Đảng bộ xã Phú Hội lần thứ VII
được tổ chức. Từ những thành quả đạt được, Đảng bộ xã
đã đánh giá những thành tựu và nguyên nhân thắng lợi của
nhiệm kỳ 2015 - 2020: Tình hình kinh tế phát triển theo cơ
cấu đề ra, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, cơ sở hạ
tầng ngày càng phát triển phục vụ thuận tiện cho nhân dân
trong các lĩnh vực sinh hoạt, sản xuất, thành lập nhiều tổ
hợp tác kinh tế phục vụ sản xuất nhân dân; lĩnh vực văn
hóa, xã hội đáp ứng nhu cầu sức khỏe, học tập, vui chơi,
344

35.5 Page 345

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống chính trị được xây dựng,
củng cố, kiện toàn vững mạnh, tình hình an ninh trật tự được
giữ vững ổn định tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội.
Với vai trò lãnh đạo, Đảng bộ xã luôn được sự quan tâm
chỉ đạo từ cấp ủy, chính quyền cấp trên và sự nỗ lực, thực
thi trách nhiệm của tổ chức Đảng địa phương. Đảng bộ xã
Phú Hội quan tâm tổ chức cán bộ, tăng cường cán bộ lãnh
đạo điều hành địa phương thực hiện nhiệm vụ. Quá trình
thực hiện mục tiêu chung về phát triển kinh tế, xã hội, toàn
Đảng bộ vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều
hành. Tập thể Đảng bộ xã đoàn kết, hệ thống chính trị phối
hợp nhịp nhàng, phát huy vai trò, trách nhiệm. Công tác vận
động quần chúng kiện toàn và đi vào chiều sâu, nhân dân
tham gia tích cực thực hiện các phong trào tại địa phương.
Bên cạnh đó, Đảng bộ xã nhận diện những hạn chế của địa
phương. Một số mặt trong lĩnh vực kinh tế của xã Phú Hội
còn hạn chế, thương mại dịch vụ phát triển chậm. Tiềm năng
và nguồn lực của địa phương chưa phát huy hiệu quả. Các
chương trình phát triển văn hóa - xã hội vẫn còn hạn chế.
Tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội vẫn còn
tiềm ẩn nhiều phức tạp. Công tác tuyên truyền, vận động
của đoàn thể đến đoàn viên, hội viên chưa đạt hiệu quả cao.
Với trách nhiệm và vai trò lãnh đạo toàn diện địa
phương, Đảng bộ xã Phú Hội đúc kết những bài học
kinh nghiệm:
- Các cấp ủy Đảng và đảng viên phải nêu cao tinh thần
đoàn kết, thống nhất từ nhận thức đến hành động. Tăng
345

35.6 Page 346

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
cường và thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động quần chúng, phải nắm chắc và lãnh đạo cho
được lực lượng quần chúng trong mọi điều kiện. Giữ vững
vai trò lãnh đạo, điều hành, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, kịp thời
khắc phục những thiếu sót, tồn tại, phải luôn luôn lắng nghe
và tôn trọng ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính
trị, thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”. Phát huy tinh thần trách nhiệm
của cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương trong quyết định, điều hành phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, giữ gìn kỷ cương phép nước và ý thức tôn trọng pháp
luật trong mọi hoạt động xã hội.
- Thực hiện tốt công tác qui hoạch - bồi dưỡng - đào
tạo - bố trí - sử dụng cán bộ vừa mang tính thực tế, vừa
mang tính kế thừa, nhất là các chức danh chủ chốt. Trình
độ cán bộ phải nâng lên ngang tầm với nhiệm vụ, vận dụng
sáng tạo các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách Pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh thực tế ở
địa phương.
- Không ngừng đổi mới và chỉnh đốn Đảng về mọi
mặt, đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh
quốc phòng, nâng cao tinh thần cảnh giác sự phá hoại nhiều
mặt của các thế lực thù địch nhất là về văn hóa tư tưởng. Kịp
346

35.7 Page 347

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hội
thời nắm bắt mọi diễn biến và bức xúc của cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân để có biện pháp giải quyết.
- Chủ động, linh hoạt và duy trì nghiên cứu tổng kết,
phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời các nghị quyết
của Đảng cấp trên và chương trình hành động của Đảng
bộ khi thực hiện ở địa phương, đúc kết những bài học kinh
nghiệm quý báu, phát huy những ưu điểm, khắc phục những
thiếu sót tồn tại để thực hiện hoàn thành nhiệm vụ.
Nhận diện được thực trạng của một quá trình thực hiện
xây dựng, phát triển địa phương, trên cơ sở thành quả của
địa phương đạt được, Đảng bộ xã Phú Hội hướng đến mục
tiêu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ xã; đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn diện; thực
hiện tốt và đồng bộ các chính sách an sinh xã hội; bảo đảm
quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội; phấn đấu hoàn thành các tiêu chí về xây dựng
Nông thôn mới; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,
tăng cường công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội,
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền; tiếp
tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”; xây dựng xã Phú Hội anh hùng
giàu đẹp, dân chủ, văn minh”.
Xã Phú Hội của ngày xưa với đồng, trảng, rạch, nổng,
gò đồi, rừng lòng chảo, xóm hố... của một địa bàn cư dân
với hoạt động nông nghiệp làm chính đã có những đổi thay
347

35.8 Page 348

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hội (1930 - 2020)
trên nhiều mặt. Diện mạo của xã khang trang với những cơ
sở vật chất được xây dựng, hệ thống lưới điện đến các khu
dân cư, các tuyến đường giao thông kiên cố, mở rộng, liên
kết các địa bàn, nhà cửa của người dân thay đổi theo hướng
hiện đại, các trường học, trạm y tế được xây dựng mới...
cùng với các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao đem lại
chất lượng sống cao hơn... phản ánh hướng phát triển hiện
đại, bền vững. Những bài học sau mỗi kỳ đại hội xây dựng
và phát triển địa phương sẽ giúp cho Đảng bộ xã Phú Hội
thêm những kinh nghiệm quý báu cho quá trình lãnh đạo
trong giai đoạn mới. Bài học công tác cán bộ, nhận thức vai
trò của tổ chức đảng, của tập thể Đảng ủy, của mỗi đảng
viên trong giai đoạn hiện nay cần được quan tâm hơn nữa là
nhân tố quan trọng. Đảng bộ xã Phú Hội nêu cao tinh thần
đoàn kết, giữ vững sức chiến đấu, chủ động và linh hoạt
trong lãnh đạo nhân dân địa phương cùng chung tay, đồng
lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phát huy
truyền thống cách mạng, bảo tồn các giá trị di sản, khai thác
hiệu quả các tiềm năng, lợi thế trong sự phát triển chung của
vùng đất Nhơn Trạch.
348

35.9 Page 349

▲back to top


Đội du kích xã Phú Hội được phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang năm 1978.
349

35.10 Page 350

▲back to top


Bản đồ xã Phú Hội trong cơ cấu hành chính
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


BÍ THƯ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỘI CÁC THỜI KỲ
Đồng chí
Hà Xuân Lâm
Đồng chí
Nguyễn Văn Thuận
Đồng chí
Trần Văn Lực
Đồng chí
Hồ Minh Lực
Đồng chí
Nguyễn Hữu Nghị
351

36.2 Page 352

▲back to top


Đồng chí
Nguyễn Quang Vinh
Đồng chí
Nguyễn Anh Tuấn
Đồng chí
Nguyễn Thị Hồng Vân
Đồng chí
Lang Văn Út
Đồng chí
Huỳnh Phi Long
352

36.3 Page 353

▲back to top


CHÂN DUNG BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
XÃ PHÚ HỘI
Mẹ Huỳnh Thị Cận Mẹ Đặng Thị Tứ
Mẹ Lê Thị Đối
Mẹ NguyễnThị Chánh Mẹ Nguyễn Thị Mành Mẹ NguyễnThị Thế
353

36.4 Page 354

▲back to top


Mẹ Trần Thị Nhạt
Mẹ Trần Thị Nhị
Mẹ Trần Thị Sắc
Mẹ Nguyễn Thị Biển
Mẹ Lê Thị Bộ
Mẹ Lâm Thị Bửu
354

36.5 Page 355

▲back to top


Mẹ Võ Thị Giệng
Mẹ Đặng Thị He
Mẹ Võ Thị Le
Mẹ Đặng Thị Lúa Mẹ NguyễnThị Mười Mẹ Đặng Thị Nghĩa
355

36.6 Page 356

▲back to top


Mẹ Đào Thị Phấn Mẹ Lương Thị Phát Mẹ Đặng Thị Phương
Mẹ Đặng Thị Quốc Mẹ Trà Thị Rang Mẹ Nguyễn Thị Sâm
356

36.7 Page 357

▲back to top


Mẹ Nguyễn Thị Sinh Mẹ Nguyễn Thị Thâu Mẹ Đặng Thị Thôi
Mẹ Nguyễn Thị Thiệp Mẹ Lý Thị Thưa Mẹ Dương Thị Tửu
357

36.8 Page 358

▲back to top


HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA XÃ PHÚ HỘI
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hội nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Xã Phú Hội tổ chức dâng hương tại Nhà bia Liệt sĩ.
358

36.9 Page 359

▲back to top


Đại hội Hội Cựu chiến binh xã Phú Hội.
Đại hội Mặt trận Tổ quốc xã Phú Hội.
359

36.10 Page 360

▲back to top


Hội nghị của ĐoànThanh niên xã Phú Hội.
Hoạt động của Hội Phụ nữ xã Phú Hội.
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Hoạt động công tác Khối vận xã Phú Hội.
Hoạt động Công an xã Phú Hội.
361

37.2 Page 362

▲back to top


Hoạt động công tác tôn giáo xã Phú Hội.
Công tác Quân sự xã Phú Hội.
362

37.3 Page 363

▲back to top


Hội trại tuyển quân nhập ngũ xã Phú Hội.
Xã Phú Hội tổ chức Hội thi kể chuyện
Học tập, làm theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.
363

37.4 Page 364

▲back to top


Xã Phú Hội tổ chức Hội thi
tìm hiểu Lịch sử - văn hóa địa phương.
Tuổi trẻ Phú Hội với biển đảo quê hương.
364

37.5 Page 365

▲back to top


Cán bộ, đảng viên học tập nghị quyết.
Lễ kết nạp đảng viên tại xã Phú Hội.
365

37.6 Page 366

▲back to top


Ký kết thực hiện phong trào thi đua yêu nước.
Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc tại xã Phú Hội.
366

37.7 Page 367

▲back to top


Thành lập Câu lạc bộ Gia đình phát triển bền vững.
Tặng quà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Đối.
367

37.8 Page 368

▲back to top


Tặng quà cho cựu tù chính trị ở xã Phú Hội.
Tặng Nhà tình thương ở xã Phú Hội.
368

37.9 Page 369

▲back to top


Tặng Nhà đồng đội ở xã Phú Hội.
Tham gia thi đấu bóng đá do xã Phú Hội tổ chức.
369

37.10 Page 370

▲back to top


Công trình
giao thông
nông thôn
ở địa phương.
370
Hoạt động
Khuyến nông
của xã
Phú Hội.
Trụ sở
Ủy ban
nhân dân
xã Phú Hội.

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Nhà Bia liệt sĩ
xã Phú Hội.
Di tích
đình Phú Mỹ
và 3 bức
hoành phi.
Nghi cúng
trong lễ
Kỳ yên
tại đình
Phú Mỹ.
371

38.2 Page 372

▲back to top


Đảng ủy xã Phú Hội
triển khai công tác
tổ chức biên soạn
lịch sử địa phương.
372

38.3 Page 373

▲back to top


Ban Chấp hành ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỘI
CÁC THỜI KỲ
STT
HỌ VÀ TÊN
CHỨC VỤ
Chi bộ 1954 - 1965
1
Nguyễn Văn Muôn
(Hai Mến)
Chi bộ 1954 - 1968
2
Nguyễn Ngọc Minh
(Năm Vĩnh)
Chi bộ 1966 - 1968
1
Lư Văn Chắc
(Ba Vân, Ba Chắc)
Chi bộ 1968 - 1971
1
Quách Công Chánh
(Bốn Ban)
Chi bộ 1969 - 1970
Bí thư chi bộ
Phú Hội
Bí thư chi bộ
Phú Mỹ
Bí thư chi bộ
Phú Hội
Bí thư chi bộ
Phú Hội
1 Lê Quyết Chiến (Tám Chiến) Bí thư chi bộ Phú Mỹ
Chi bộ 1971 - 1972
1 Huyện Nhơn Trạch chỉ đạo Chi bộ Phú Hội
Chi bộ 1971 - 1973
1
Huỳnh Văn Khôi
(Năm Khôi)
Bí thư chi bộ
Phú Mỹ
373

38.4 Page 374

▲back to top


Chi bộ 1973 - 1975
1
Lê Quyết Chiến (Tám Chiến)
Bí thư chi bộ
Phú Hội
2 Hà Xuân Lâm (Tư Lâm)
Cán bộ huyện
phụ trách
Chi bộ (1973 - 1975)
1 Hà Xuân Lâm
Bí thư
Chi bộ (1976 - 1978)
1 Nguyễn Văn Thuận
Bí thư
Chi bộ (1979 - 1988)
1 Hà Xuân Lâm
Bí thư
Chi bộ (1988 - 1990)
1 Trần Văn Lực
Bí thư
Chi bộ (1991 - 1993)
1 Trần Văn Lực
Bí thư
2 Hồ Minh Lực
Phó Bí thư
3 Nguyễn Thị Mai
UV, CN. UBKT
(1992)
4 Nguyễn Hữu Nghị
Ủy viên
5 Nguyễn Thanh Phong
Ủy viên
374

38.5 Page 375

▲back to top


BCH Đảng bộ khóa I (1993 - 1995)
1 Hồ Minh Lực
Bí thư Đảng
2 Nguyễn Hữu Nghị
Phó Bí thư
3 Nguyễn Văn Sang
Ủy viên Thường vụ
4 Nguyễn Thị Mai
Ủy viên, CN.UBKT
5 Hồ Văn Hồng
Ủy viên
6 Hà Xuân Lâm
Ủy viên
7 Nguyễn Thanh Tuyền
Ủy viên
8 Hồ Minh Phương
Ủy viên
9 Huỳnh Kim Ly
Ủy viên
BCH Đảng bộ khóa II (nhiệm kỳ 1995 - 2000)
1 Hồ Minh Lực
Bí thư
2 Nguyễn Hữu Nghị
Phó Bí thư
3 Lư Hồng Nguyên
Ủy viên Thường vụ
4 Nguyễn Văn Kiệt
Ủy viên, CN. UBKT
5 Nguyễn Văn Sang
Ủy viên
6 Hà Xuân Lâm
Ủy viên
7 Nguyễn Thanh Tuyền
Ủy viên
8 Trần Hai
Ủy viên
9 Trần Văn Cầm
Ủy viên
375

38.6 Page 376

▲back to top


BCH Đảng bộ khóa III (nhiệm kỳ 2000 - 2005)
1 Hồ Minh Lực
Bí thư
2 Nguyễn Hữu Nghị
Phó Bí thư
3 Đỗ Đình Lũy
Ủy viên thường vụ
4 Nguyễn Thị Tơn
Ủy viên
5 Huỳnh Kim Ly
Ủy viên
6 Hồ Minh Phương
Ủy viên
7 Lê Thị Bảy
Ủy viên, CN.UBKT
BCH Đảng bộ khóa IV (nhiệm kỳ 2005 - 2010)
1 Nguyễn Hữu Nghị
Bí thư (tháng 5 -
11/2005)
2 Nguyễn Quang Vinh
Phó Bí thư
(tháng 5 - 11/2005)
Bí thư (tháng
11/2005 - 2010)
3 Châu Thanh Phong
Phó Bí thư
4 Nguyễn Thị Tơn
Ủy viên Thường vụ
5 Vũ Thị Mạch
Ủy viên, CN. UBKT
6 Lê Minh Thông
Ủy viên
7 Nguyễn Văn Hải
Ủy viên
8 Hồ Minh Phương
Ủy viên
9 Hoàng Thanh
Ủy viên
10 Lê Thị Bảy
Ủy viên
376

38.7 Page 377

▲back to top


BCH Đảng bộ khóa V (nhiệm kỳ 2010 -2015)
1 Nguyễn Anh Tuấn
Bí thư (5/2010-
3/2011)
2 Nguyễn Thị Hồng Vân
Bí thư
(3/2011-10/2013)
CN. UBKT
(5/2013-10/2013)
3 Lang Văn Út
Bí thư
(10/2013-2015)
CN.UBKT
(10/2013-2015)
4 Châu Thanh Phong
Phó Bí thư
5 Phạm Anh Dũng
Phó Bí thư
6 Nguyễn Quang Vinh
UVTV
(5/2010-5/2013) -
CN. UBKT
(5/2010-5/2013)
Ủy viên
(5/2013-2015)
7 Huỳnh Thị Thu Sương
8 Nguyễn Thị Tơn
9 Lê Minh Thông
10 Lê Đức Tài
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên, Phó CN.
UBKT
Ủy viên (5/2010
-10/2013)
Ủy viên (7/2013-
2015)
377

38.8 Page 378

▲back to top


11 Nguyễn Vũ Anh
Ủy viên
12 Hoàng Thanh
Ủy viên
13 Hồ Văn Phong
14 Nguyễn Huy Sang
15 Võ Duy Linh
Ủy viên
Ủy viên (10/2013-
2015)
Ủy viên
BCH Đảng bộ khóa VI (nhiệm kỳ 2015 -2020)
1 Lang Văn Út
2 Phạm Anh Dũng
3 Phạm Văn Nhựt
Bí thư
Phó Bí thư (5/2015-
3/2016)
Phó Bí thư
4 Huỳnh Thị Thu Sương
UVTV, CN. UBKT
5 Nguyễn Quang Vinh
Ủy viên
6 Lê Đức Tài
Ủy viên
7 Nguyễn Vũ Anh
Ủy viên
8 Hồ Văn Phong
Ủy viên
9 Nguyễn Huy Sang
10 Võ Duy Linh
11 Bùi Thanh Oai
12 Dương Khắc Chiến
Ủy viên
Ủy viên (5/2015-
12/2015)
Ủy viên (12/2015-
4/2018)
Ủy viên (4/2018-
2020)
378

38.9 Page 379

▲back to top


13 Nguyễn Huy Sang
Ủy viên
14 Phan Thị Kim Oanh
Ủy viên
BCH Đảng bộ khóa VII (nhiệm kỳ 2020 -2025)
1 Huỳnh Phi Long
Bí thư
2 Tô Anh Quốc
Phó Bí thư
3 Huỳnh Thị Thu Sương
Thường trực Đ.U
4 Nguyễn Văn Mến
Ủy viên
5 Nguyễn Quang Vinh
Ủy viên
6 Lê Đức Tài
Ủy viên
7 Nguyễn Vũ Anh
Ủy viên
8 Phan Thị Kim Oanh
PCN. UBKT
9 Nguyễn Huy Sang
Ủy viên
10 Hồ Văn Phong
Ủy viên
11 Dương Khắc Chiến
Ủy viên
379

38.10 Page 380

▲back to top


DANH SÁCH Bà mẹ Việt Nam ANH HÙNG
XÃ PHÚ HỘI
(xếp theo thời gian truy tặng, phong tặng)
STT Họ và tên
Liệt sĩ, thời gian hy sinh (h/s)
Năm
nhận
1
Đặng Thị Tứ
(1903-1987)
- Nguyễn Quang Đường, 1949
(con)
- Nguyễn Hữu Dũng,1953 (con) 1994
- Nguyễn Thị Huyền
Ngân,1967(con)
2
Đào Thị Phấn
(1911-2009)
- Lư Văn Nén, 1951(chồng)
- Lư Văn Trực,1962 (con)
- Lư Văn Hòa, 1964 (con)
- Lư Văn Kiệt, 1971 (con)
1994
3
Huỳnh Thị Cận
(1905-1998)
- Lê Văn Bên, 1965 (con)
- Lê Văn Ron, 1966 (con)
- Lê Thị Mười, 1969 (con)
1994
4
Huỳnh Thị Hý
(? - 1960)
- Phan Văn An, 1970 (chồng)
- Phan Văn Lợi, 1963 (con)
- Phan Văn Tân, 1972 (con)
1994
5
Lê Thị Đối
(1917 - 2018)
- Nguyễn Văn Huân, 1962 (con)
- Nguyễn Văn Công, 1965 (con) 1994
- Nguyễn Văn Sáu, 1969 (con)
6
Lư Thị Lụa
(1912 - 1992)
- Trà Văn Năm (con)
- Trà Thanh Phong (con)
- Trà Thị Hiền (con)
1994
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


7
Lư Thị Thạnh
(1912 - 1968)
- Lư Văn Chắc,1965 (con)
- Nguyễn Văn Rọt, 1971 (con)
1994
Nguyễn Thị
8 Chánh
(1919 - 1999)
- Huỳnh Văn Tiến,1965 (con)
- Huỳnh Văn Lớn, 1972 (con)
1994
Nguyễn Thị
9 Mành
(1925 - 2022)
- Hồ Văn Lo (Quân), 1972
(con)
-Hồ Phương Trang,1972(con)
-Hồ Minh Cảnh (Ngọc), 1970
(con)
1994
10
Nguyễn Thị Thế
(1899-1983)
-
-
-
Trần
Trần
Trần
Văn Cội (chồng)
Thanh Tùng,1947
Thị Thiệt, 1965.
(con)
1994
11
Phan Thị Ớn
(1912-1970)
- Phan Văn Tâm,1968 (con)
- Phan Văn Châu, (con)
1994
12
Trần Thị Nhạt
(1911-2010)
- Lê Văn Thành,1971 (con)
1994
13
Trần Thị Nhị
(1924-1997)
- Nguyễn Văn Lem,1968 (con)
- Nguyễn Văn Chiến, 1968
(con)
1994
- Nguyễn Văn Công, 1971 (con)
14 Hồ Thị Sành - Nguyễn Văn Côi, 1967 (con) 1994
381

39.2 Page 382

▲back to top


15
Trần Thị Sắc
(1914-2012)
- Lê Văn Kiệt, 1961 (con)
- Lê Văn Thắng, 1971 (con)
- Lê Văn Thường, 1972 (con)
- Lê Văn Tùng,1974 (con)
1994
16
Trần Thị Thiệt
(1924-1965)
- Là liệt sỹ, 1965
- Trần Văn Năm, 1972 (con)
- Trần Thị Thanh Giang, 1971
(con)
1994
17
Trần Thị Dương
(1900-1977)
- Nguyễn Thị Lùng, 1951
1995
18
Nguyễn Thị Đồ
(1911-1969)
- Nguyễn Thị Thịnh,1964 (con)
1995
Nguyễn Thị
19 Thiếp
(1921-1953)
- Lương Văn Lên 1964 (con)
1995
Dương Thị
20 Chính
(1930 - 1965)
- Hồ Văn Ro,1970 (con)
1995
21
Nguyễn Thị
Phướng
- Lý Văn Song, 1966, (con)
1996
Huỳnh Thị
22 Chẩm
(1908 - 1962)
- Bùi Văn Thể, 1970 (chồng)
- Bùi Văn Lơ, 1969 (con)
- Bùi Thị Diễn, 1970 (con)
- Bùi Văn Khê, 1971 (con)
1997
382

39.3 Page 383

▲back to top


23
Trần Thị Ba
(1932 - 1950)
Trần Văn Bảnh, 1971 (con)
2000
Nguyễn Thị
24 Tám
(1915 - 1975)
- Là liệt sĩ, 1975
- Thái Văn Quán, 1975 (chồng) 2010
- Thái Thị Đen, 1967 (con)
25
Nguyễn Thị Bén Huỳnh Văn Đãi, (con)
(1899 - 1979) Huỳnh Văn Bảy,(con)
2014
Nguyễn Thị
26 Biển
(1896 - 1950)
- Phạm Văn Ca, 1949 (con)
- Phạm Văn Thành, 1971 (con)
2014
27
Lê Thị Bộ
(1916 - 2001)
- Phạm Văn Mới, 1968 (con)
- Phạm Văn Cũ, 1971 (con)
2014
28
Lâm Thị Bửu
(1919 - 2009)
- Lý Văn Bảy, 1948 (chồng)
- Nguyễn Văn Mật,1952
(chồng)
- Nguyễn Văn Ước, 1970 (con)
2014
29
Lê Thị Dứa
(1917 - 1962)
- Nguyễn Văn Văn, 1966 (con)
- Nguyễn Văn Dính, 1970 (con)
2014
30
Võ Thị Giệng
(1918 - 1981)
Huỳnh Thiện Tâm, 1971 (con)
Huỳnh Công Thành,1970 (con)
2014
31
Nguyễn Thị Hảo - Nguyễn Văn Nhàn, 1972 (con)
(1907 - 1993) - Mai Văn Chúc,1972 (con)
2014
383

39.4 Page 384

▲back to top


32
Đặng Thị He
(1918 - 2013)
- Nguyễn Văn Hải, 1968 (con)
- Nguyễn Văn Sẳng, 1970 (con)
2014
33
Lư Thị Hòa
(1923 - 2004)
- Lê Văn Sáng, 1970 (con)
- Lê Thị Thu (Hà), 1974.
2014
34
Võ Thị Le
(1924 - 2007)
- Lê Hồng Quốc, 1970 (con)
- Lê Văn Tiến,1969 (con)
2014
35
Đặng Thị Lúa
(1903 - 1998)
- Từ Văn Du, 1973 (con)
- Từ Văn Tính, 1972 (con)
2014
Nguyễn Thị
36 Mười
(1906 - 1998)
- Nguyễn Công Lâm, 1968
(con)
2014
- Nguyễn Văn Gầm,1968 (con)
37
Đặng Thị Nghĩa - Thái Minh Trí, 1968 (con)
(1911 - 1995) - Thái Minh Hóa, 1972 (con)
2014
38
Nguyễn Thị Nhỉ - Đặng Văn Cải, 1971 (con)
(1900 - 1945) - Đặng Văn Xại, 1971 (con)
2014
39
Lương Thị Phát
(1911 - 2010)
- Trương Trung Tín, 1972 (con)
- Lê Văn Lập, 1968 (con)
2014
40
Đặng Thị Phước - Nguyễn Thị Bông, 1968 (con)
(1909 - 1991) - Nguyễn Văn Sanh, 1968.
2014
Đặng Thị
41 Phương
(1922 - 2014)
- Nguyễn Văn Đực,1967 (con)
Nguyễn Văn Loan,1986 (con)
2014
384

39.5 Page 385

▲back to top


42
Đặng Thị Quốc
(1917 - 2019)
- Huỳnh Văn Thương,1967
(con)
- Huỳnh Văn Hết, 1968 (con)
2014
43
Trà Thị Rang
(1919 - 2011)
- Phạm Văn Xuân, 1965 (con)
- Phạm Văn Thành, 1973 (con)
2014
Nguyễn Thị
44 Sâm
(1893 - 1971)
- Đào Thị Ca, 1952 (con)
- Đào Mỹ Dền,(con)
2014
45
Lê Thị Sinh
(1921 - 2011)
- Nguyễn Văn Mười, 1969 (con)
- Nguyễn Thị Thanh,1974
2014
Nguyễn Thị
46 Thâu
(1920 - 1980)
- Phan Văn Bốn, 1974 (chồng)
- Phan Văn Hường, 1968 (con)
2014
47
Đặng Thị Thôi
(1900 - 1996)
- Nguyễn Văn Định, 1968 (con)
- Nguyễn Công Minh, 1964 2014
(con)
Nguyễn Thị
48 Thiệp
(1920 - 2005)
- Nguyễn Thị Nhàn, 1970 (con)
- Nguyễn Thanh Nghị,1975 2014
(con)
49
Lý Thị Thưa
(1915 - 1984)
- Lê Thanh Bình, 1966 (con)
- Lê Văn Dễ,1971 (con)
2014
385

39.6 Page 386

▲back to top


50
Dương Thị Tửu
(1903 - 1986)
- Nguyễn Văn Nha, 1963
(chồng)
- Nguyễn Thị Dét,1966 (con)
51
Huỳnh Thị Ba
(1911 - 2001)
- Võ Văn Ngưỡng,1968 (con)
52
Lê Thị Giang
(1917 - 1969)
- Lê Văn Cớ, 1970 (con)
Nguyễn Thị
53 Huyến
(1905 - 1944)
- Phan Văn Biểu,1968 (con)
54
Võ Thị Mì
(1890 - 1951)
- Lê Văn Bộ,1950 (con)
- Lê Văn Phép,1950 (con)
Nguyễn Thị
55 Nguyệt
(? - 1958)
- Lê Văn Thu, 1971 (con)
56
Nguyễn Thị Nhỏ - Nguyễn Trung Tâm,1967
(1908 - 1952) (con)
52
Trần Thị Trực
(1915 - 1945)
- Nguyễn Văn Tượng,1961
(con)
2014
2015
2015
2015
2015
2015
2015
2016
386

39.7 Page 387

▲back to top


DANH SÁCH LIỆT SĨ XÃ PHÚ HỘI
TT
Họ và tên
1 Lê Hồng Hà
2 Quách Công Chánh
3 Nguyễn Văn Rít
4 Phan Văn Biển
5 Tăng Văn Tưởng
6 Nguyễn Văn Trực
7 Lê Văn Lùng
8 Nguyễn Văn Lên
9 Nguyễn Minh Châu
10 Đào Văn Tuấn
11 Lê Văn Phép
12 Nguyễn Văn Chánh
13 Phan Văn Xây
14 Nguyễn Văn Bé
15 Lý Hùng Cường
16 Lê Văn Liêm
17 Trần Văn Tuy
18 Nguyễn Văn Cảnh
19 Võ Ngọc Minh
20 Lê Văn Thái
Đồng Nai
4221
2404
4251
4261
5484
2122
1828
2412
4239
4238B
1823
4244
1832
1838
5208
1858
8593
3596
1821
1817
387

39.8 Page 388

▲back to top


21 Nguyễn Văn Kiến
22 Hà Văn Trọng
23 Phan Văn Quyền
24 Nguyễn Văn Đen
25 Nguyễn Ngọc Hai
26 Nguyễn Văn Răng
27 Võ Văn Phương
28 Từ Văn Du
29 Lê Văn Nhỏ
30 Lê Văn Đấu
31 Huỳnh Văn Xướng
32 Bạch Văn Bảy
33 Đặng Văn Xê
34 Nguyễn Văn Cửu
35 Hồ Văn Hai
36 Nguyễn Văn Nào
37 Đặng Văn Xại
38 Võ Văn Sóc
39 Nguyễn Văn Mãnh
40 Huỳnh Văn Năng
41 Đỗ Văn Thiền
42 Nguyễn Văn Tượng
43 Nguyễn Văn Truyền
388
1819
5038
3670b
1827
1831
12157
7365
2407
1830
2411
9780
307
3431
1854
4224
3860
4255
1810
10526
12063
2078
1849
7051

39.9 Page 389

▲back to top


44 Nguyễn Công Lâm
45 Nguyễn Công Minh
46 Huỳnh Văn Hoa
47 Lê Văn Kiệt
48 Nguyễn Chi Lăng
49 Trà Thị Ánh Nguyệt
50 Nguyễn Văn Bia
51 Phan Văn Màu
52 Nguyễn Văn Tống
53 Phan Văn Cải
54 Nguyễn Văn Hoàng
55 Huỳnh Văn Trường
56 Lê Văn Lợi
57 Nguyễn Ngọc Sứ
58 Đặng Văn Cải
59 Nguyễn Đức Hạnh
60 Trần Thanh Tùng
61 Phan Văn Tân
62 Nguyễn Văn Hồ
63 Nguyễn Văn Mật
64 Lý Văn Bảy
65 Nguyễn Văn Diềm
66 Lê Thị Tuyết
4270
8003b
2368
1845
3372
3419
9267
6462
10476
3404
1856
6205
8591
6687
2452
1812
6456
1880
3359
8312
12158
6478
12414
389

39.10 Page 390

▲back to top


67 Nguyễn Thị Sữu
68 Tăng Tấn Công
69 Nguyễn Văn Dính
70 Lê Minh Đức
71 Từ Văn Tính
72 Huỳnh Văn Tám
73 Võ Văn Liên
74 Phan Văn Kẹt
75 Phan Văn Bốn
76 Huỳnh Văn Thành
77 Huỳnh Văn Ngàn
78 Phan Văn Tưởng
79 Huỳnh Văn Hiếu
80 Trịnh Văn Tập
81 Trần Văn Thời
82 Nguyễn Thị Tám
83 Vo Hữu Nghĩa
84 Hồ Minh Cảnh
85 Nguyễn Văn Bé Ba
86 Lê Văn Bộ
87 Nguyễn Văn Sơn
88 Võ Văn Dĩ
89 Hồ Văn Ro
390
12361
1818
11540
1842
7331
1853
12730
12864
12372
1829
12936
10661
1811
10776
13036
2850
2045
4271
4225
6457
5040
1844
2409

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


90 Nguyễn Văn Mí
91 Lương Văn Lên
92 Lê Văn Bon
93 Nguyễn Văn Hải
94 Nguyễn Văn Ước
95 Đặng Văn Đường
96 Phạm Minh Châu
97 Lê Văn Ron
98 Lê Văn Thành
99 Lê Văn Tiền
100 Nguyễn Thị Miểng
101 Huỳnh Công Thành
102 Phạm Văn Xuân
103 Võ Văn Ngưỡng
104 Lê Văn Thường
105 Lê Văn Chánh
106 Bùi Văn Ní
107 Lê Thanh Bình
108 Nguyễn Văn Thế
109 Lê Văn Tâm
110 Thái Thị Đen
111 Lý Văn Hậu
112 Nguyễn Văn Oanh
8207
1836
1815
5039
5840
1855
1826
4258
1814
2451
6434
2450
1850
7054
5839
6225
1882
9583
10313
5063
5056
10531
6473
391

40.2 Page 392

▲back to top


113 Trần Thanh Hoàng
114 Đặng Văn Khinh
115 Nguyễn Văn Gấm
116 Nguyễn Văn Quân
117 Huỳnh Văn Mách
118 Đào Văn Phương
119 Đào Thị Ca
120 Nguyễn Văn Nhẫn
121 Võ Văn Thiết
122 Đặng Văn Hai
123 Phan Văn Tâm
124 Đỗ Văn Thảnh
125 Đặng Văn Sơn
126 Lê Minh Chiến
127 Phạm Ngọc Mong
128 Nguyễn Văn Trợ
129 Đặng Văn Bé
130 NguyễnVăn Lẹo
131 Nguyễn Văn Côi
132 Nguyễn Văn Đức
133 Nguyễn Văn Út
134 Nguyễn Thị Thịnh
135 Nguyễn Văn Châu
392
4322
5575
1885
4318
11295
4320
5577
6711
6206
12180
3458
8051
4272
3403
10014
6666
1809
12379
8197
6654
10420
6474
3394

40.3 Page 393

▲back to top


136 Lê Văn Thiên
137 Trần Thị Thanh Giang
138 Lê Văn Cảy
139 Trà Văn Năm
140 Nguyễn Hữu Dũng
141 Nguyễn Văn Thương
142 Thái Minh Trí
143 Lê Thành Du
144 Nguyễn Thị Bông
145 Trần Văn Bảnh
146 Nguyễn Văn Dũng
147 Phan Văn Ròng
148 Phạm Công Thành
149 Huỳnh Văn Minh
150 Mai Văn Tiền
151 Nguyễn Văn Nghĩa
152 Phạm Văn Ca
153 Nguyễn Văn Công
154 Nguyễn Văn Chỉnh
155 Nguyễn Văn Hai
156 Phạm Văn Bất
157 Nguyễn Thị Qúy
158 Nguyễn Trung Tâm
5042
5043
4260
4226
11245
8042
4257
4241
5045
5462
8174
1884
2406
1841
4232
2432
7275
3461
6668
6449
4230
8060
11446
393

40.4 Page 394

▲back to top


159 Huỳnh Đình Ky
160 Hà Văn Đông
161 Nguyễn Thị Dét
162 Nguyễn Văn Biễn
163 Phan Văn Ba
164 Nguyễn Văn Mười
165 Đặng Văn Hùng
166 Lê Văn Nón
167 Nguyễn Văn Nhàn
168 Nguyễn Thị Tỏ
169 Nguyễn Văn Theo
170 Nguyễn Văn Màng
171 Lê Văn Ngô
172 Lê Văn Thu
173 Lê Văn Rạng
174 Nguyễn Văn Định
175 Nguyễn Văn Tùng
176 Đặng Hùng Oanh
177 Phạm Thị Kim Quan
178 Phạm Văn Khy
179 Nguyễn Văn Quân
180 Nguyễn Văn Nét
181 Trần Văn Cối
394
9084
5903
3825
4253
1824
4248
4247
4245
4263
1833
4321
8311
10659
9574
6472
1886
11244
4237
1837
2408
1840
3806
1835

40.5 Page 395

▲back to top


182 Lê Hoài Trung
183 Nguyễn Văn Bảy
184 Đặng Văn Tám
185 Đỗ Tấn Hội
186 Trần Văn Dũng
187 Huỳnh Văn Tiến
188 Phan Văn Tư
189 Nguyễn Văn Dính
190 Lê Văn Lơ
191 Dương Văn Hùng
192 Trần Văn Năm
193 Lê Văn Sáng
194 Nguyễn Thị Hiền
195 Nguyễn Văn Đời
196 Phạm Văn Quyền
197 Huỳnh Thiện Tâm
198 Trần Văn Côi
199 Lê Văn Có
200 Huỳnh Văn Lớn
201 Nguyễn Quang Đường
202 Nguyễn Thị Huyền Ngân
203 Lê Hồng Quốc
204 Lê Thị Mười
3352
4252
4250
4264
1848
4273
5044
4246
4262
8013
4319
4254
9929
5049
3447
2410
7330
7737
4217
6696
6198
3395
6197
395

40.6 Page 396

▲back to top


205 Lê Văn Bên
206 Nguyễn Thanh Nghị
207 Nguyễn Thị Nhàn
208 Trà Thanh Phong
209 Trà Thị Hiền
210 Phạm Văn Thành
211 Phan Văn Lời
212 Lê Văn Dễ
213 Lư Văn Nén
214 Lư Văn Hào
215 Lư Văn Kiệt
216 Lê Văn Trực
217 Nguyễn Văn Rọt
218 Nguyễn Văn Sẳn (Quốc)
219 Nguyễn Văn Dè
220 Nguyễn Văn Văn
221 Phan Văn Châu
222 Nguyễn Văn Sanh
223 Phan Thị Ớn
224 Nguyễn Văn Chiến
225 Nguyễn Văn Công
226 Nguyễn Văn Lem
227 Nguyễn Thị Lùng
396
4218
1808
4249
4256
4227
1851
4323
9578
10416
4229
7332
4228
6471
3353
6220
12236
4324
10674
2449
3348
4240
3347
238

40.7 Page 397

▲back to top


228 Nguyễn Văn Giao
229 Trương Trung Tín
230 Nguyễn Văn Hiệp
231 Lê Văn Thứ
232 Lê Văn Lập
233 Mai Văn Chúc
234 Dương Tấn Lũy
235 Dương Tấn Sáu
236 Huỳnh Văn Đãi
237 Huỳnh Văn Bảy
238 Huỳnh Văn Khuấy
239 Lý Văn Song
240 Nguyễn Văn Nha
241 Nguyễn Văn Đức
242 Nguyễn Văn Loan
243 Huỳnh Văn Lời
244 Nguyễn Văn Năng
245 Lê Văn Tùng
246 Thái Văn Quán
247 Thái Minh Hóa
248 Phạm Văn Củ
249 Trần Văn Tốt
250 Nguyễn Văn Phải
239
1852
4171
1883
4267
4266
3398
3397
8399
8392
9083
8620
12413
7736
2721
12415
8508
1846
2856
4219
4231
10426
1095
397

40.8 Page 398

▲back to top


251 Phan Văn Lời
252 Lê Văn Tâm
253 Lê Văn Minh
254 Nguyễn Thị Thanh
255 Nguyễn Văn Mười
256 Nguyễn Văn Công
257 Nguyễn Văn Sáu
258 Nguyễn Văn Rít
259 Huỳnh Văn Thương
260 Huỳnh Văn Hết
261 Nguyễn Văn Muôn
262 Hồ Phương Trang
263 Hồ Văn Lo (Quân)
4323
VT.4477
2610
6196
12532
8194
10660
7250
3661
3640
11332
398

40.9 Page 399

▲back to top


DANH SÁCH THƯƠNG BINH, BỆNH BINH
XÃ PHÚ HỘI
TT
Họ và tên
Đồng Nai
I. Thương binh
1 Thái Văn Nhơn
4837
2 Nguyễn Văn Lợi
4504
3 Quách Hồng Lạc
2570
4 Lê Văn Lâm
4838
5 Nguyễn Văn Nhẩn
3351
6 Lư Tuấn Kiệt
4506
7 Nguyễn T Thanh Hiền
4496
8 Phan Văn Việt
2439
9 Nguyễn Thị Nhẫn
4042
10 Huỳnh Văn Đường
496
11 Nguyễn Thị Liễu
525
12 Nguyễn Minh Trị
4497
13 Đặng Thị Thu Hương
468
14 Nguyễn Văn Phổ
5127
15 Hà Xuân Lâm
897
16 Nguyễn Hồng Châu
4502
399

40.10 Page 400

▲back to top


17 Nguyễn Long Biên
18 Nguyễn Văn Hỏi
19 Phan Châu Lai
20 Hồ Minh Lực
21 Nguyễn Thị Mai
22 Nguyễn Văn Bé
23 Lê Xuân Huynh
II. Bệnh binh
1 Nguyễn Thị Hồng
2 Trần Thị Phỉ
3 Huỳnh Thanh Tâm
4 Nguyễn Thanh Tuyền
5 Nguyễn Văn Phúc
3739
4621
1645
563
2655
6547
8300
597
604
1117
703
3075
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


DANH SÁCH THAM GIA KHÁNG CHIẾN
XÃ PHÚ HỘI
TT
Họ và tên
Năm
sinh
Hồ sơ
Ghi chú
1 Nguyễn Thị Hồng 1946 KC-1L 1482
2 Nguyễn Thị Mai
1945 KC.1L 1483
3 Nguyễn Văn Sang 1938 KC.1L 1484
4 Hùynh Văn Sơn
1940 KC-1L 1485
5 Nguyễn Thanh Tuyền 1941 KC-1L 1552
6 Nguyễn Văn Đức 1920 KC-1L 1631
7 Hùynh Thiện Trung
1917
KC- 1L
1632
Đã mất
8 Phan Văn Việt
1940 KC-1L 1633
9 Trần Hà Nam
1936 KC-1L 3140 Đã mất
10 Hồ Minh Lực
1945 KC-1L 3141
11 Hùynh Kim Ly
1952 KC-1L 3142
12 Nguyễn Minh Tuấn 1957 KC-1L 3143
13 Đỗ Thị Tuyết
1949 KC-1L 3144
14 Lê Văn Tấn
1943 KC-1L 3145
15 Nguyễn Thị Liễu
1949 KC-1L 3146
16 Lư Tuấn Kiệt
1956
KC -1L
3147
401

41.2 Page 402

▲back to top


17 Nguyễn Hồng Châu
18 Quách Hồng Lạc
19 Hà Xuân Lâm
20 Trần Thị Phỉ
21 Hồ Minh Phương
22 Lư Hồng Nguyên
23 Nguyễn Phước Sáng
24 Nguyễn Văn Ro
25 Lâm Hồng Thái
26 Đoàn Công Báu
27 Nguyễn Thị Hoảnh
28 Hồ Văn Hồng
29 Trần Thị Ngoạt
30 Nguyễn Văn Sáu
31 Hùynh Công Tấn
32 Nguyễn Văn Thắng
33 Nguyễn Văn Hòa
34 Thành Thị Thảo
35 Nguyễn Văn Lắm
1945 KC-1L-3148
1952 KC-1L 3149
1942 KC-1L 3150
1947 KC-1L 3151
1954 KC-1L 3152
1953 KC-1L 3153
1937 KC-1L 3155
1946 KC-1L 3154
1954 KC-1L 4790
1942 KC-1L 6151
1942
KC -1L
6152
1947 KC-1L 8781
Đã mất
1921 KC-1L 8782
1930 KC-1L 8783
1954
KC -1L
8784
1954 KC-1L 8785
1954
KC -1L
8786
1943 KC-1L 8787
1916 KC-1L 8788 Đã mất
402

41.3 Page 403

▲back to top


36 Nguyễn Văn Đức
37 Trần Văn Dũng
38
Nguyễn Thị Thanh
Hiền
39 Dương Văn Hiệp
40 Võ Thị Lựa
41 Đặng Thị Hôn
42 Nguyễn Văn Ngọc
43 Hùynh Thanh Thảo
44 Trương Thị Nhỏ
45 Hùynh Thị Đáng
46 Nguyễn Thị Tám
47 Trần Thị Nhị
48 Phan Thị Sửa
49 Trần Thị Rê
50 Lương Thị Phát
51 Lê Ngọc Tuyết
52 Nguyễn Thị Lịch
53 Thành Thị Cư
54 Châu Thị Lộc
1956 KC-1L 8789
1947
KC -1L
8790
1957 KC-1L 8791
1955 KC-1L 8792
HS -105
1945 HS -106
1932 HS -107
1949 HS-108
1951 HS-109
1950 HS -110
1930 HS -111
1925 HS -112
1938 HS -113 Đã mất
1931 HS -114
1917 HS -115 Đã mất
1935 HS -116
1953 HS -117
1944 HS -118
1922 HS -119 Đã mất
403

41.4 Page 404

▲back to top


55 Nguyễn Văn Mỹ
56 Lê Thị Hai
57 Nguyễn Thị Hĩa
58 Phan Thị Tám
59 Trương Thị Muỗi
60 Đặng Thị Hồng
61 Đặng Thị Hợp
62 Phan Thị Ly
63 Võ Văn Hóa
64 Võ Thị Thai
65 Võ Văn Tám
66 Lê Thị Cho
67 Đào Thị Lộc
68 Nguyễn Thị Liềng
69 Trương Thị Sô
70 Nguyễn Thị Thâu
71 Hồ Thị Sáu
72 Lê Thị Gần
73 Hồ Văn Xuyến
74 Nguyễn Thị Nhẩn
1942
1929
1932
1943
1948
1937
1933
1937
1924
1926
1912
1939
1930
1921
1921
1912
1904
1910
1938
HS -120
HS -121
HS -122
HS -123
HS -124
HS -125
HS -126
HS -127
HS -128
HS -129
HS -130
HS -131
HS -132
HS -133
HS -134
HS -135
HS -136
HS -137
HS -138
HS -139
Đã mất
Đã mất
404

41.5 Page 405

▲back to top


75 Lê Văn Bảy
76 Phạm Thị Bờ
77 Nguyễn Thị Nhường
78 Nguyễn Văn Lắm
79 Bùi Thị Ní
80 Nguyễn Văn Khiêm
81 Đặng Thị Mận
82 Hùynh Thị Cúc
83 Nguyễn Văn Xộ
84 Hùynh Thị Cận
85 Nguyễn Thị Hòa
86 Nguyễn Thị Nhữ
87 Nguyễn Thị Bê
88 Hùynh Văn Vô
89 Phạm Thanh Tâm
90 Lê Thị Bê
91 Trần Thị Bi
92 Lê Thị Nao
93 Nguyễn Ngọc Huệ
94 Trần Thị Ne
1922
1922
1926
1916
1907
1921
1930
1935
1916
1905
1900
1932
1941
1954
1950
HS -140
HS -141
HS -142
HS -143
HS -144
HS -145
HS -146
HS -147
HS -148
HS -149
HS -150
HS -151
HS -152
HS -153
HS -154
HS -155
HS -156
HS - 157
HS -158
HS -159
Đã mất
Đã mất
Đã mất
405

41.6 Page 406

▲back to top


95 Nguyễn Văn Xinh
96 Nguyễn Thị Thọ
97 Lê Thị Sáu
98 Hồ Thị Ngọc
99 Hùynh Văn Sên
100 Nguyễn Thị Trầm
101 Hồ Văn Ban
102 Nguyễn Văn Mười
103 Mai Thanh Sơn
104 Nguyễn Thị Đinh
105 Nguyễn Văn Sáu
106 Phan Thị Thóc
107 Nguyễn Văn Cầu
108 Hồ Thị Tặng
109 Nguyễn Thị Trải
110 Nguyễn Thị Kiểm
111 Hồ Văn Hy
112 Nguyễn Công Nông
113 Lưu Thị Phụng
114 Nguyễn Thị Phén
HS -160
HS -161
1931 HS -162
HS -163
1937 HS -551
1917 HS -552
1934 HS -553
1943 HS -554
1945 HS -555
1906 HS -556
1929 HS - 557
1945 HS -558
1908 HS -559
1918 HS -560
1906 HS -561
1929 HS -835
1918 HS -836
1900 HS -1628
1939 HS -1629
1949 HS - 1885
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
406

41.7 Page 407

▲back to top


115 Nguyễn Thị Có
116 Lê Thị Chắc
117 Nguyễn Thị Thu
118 Phan Thị Mười
119 Nguyễn Thị Cẩm
120
Nguyễn Thị Minh
Yến
121 Châu Văn Phát
122 Nguyễn Văn Lợi
123 Hồ Văn Vinh
124 Nguyễn Văn Đức
125 Võ Văn Đáp
126 Nguyễn Thị Láng
127 Nguyễn Thị Trung
128 Lê Thị Thiêu
129 Nguyễn Thị yển
130 Lê Thị Hết
131 Nguyễn Thị Mỹ
132 Đặng Thị Lòng
133 Nguyễn Thị Bao
134 Nguyễn Thị Cải
1940 HS -1886
1940 HS - 1887
1943 HS -1889
1923 HS -1888
1921 HS -1890
1948
KC-1L
10210
1929 HS -10740
1955 HS -10741
1952 HS -10742
1920 HS 10743
1935 HS -2840
1935 HS -2841
1928 HS -2842
1916 HS -2843
1919 HS -2844
1949 HS -2846
1946 HS -2847
1941 HS -2848
1943 HS -2849
1939 HS -2850
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
407

41.8 Page 408

▲back to top


135 Nguyễn Thị Sánh 1912 HS -2851
136 Nguyễn Thị Khiết 1921 HS -2852
137 Trần Thị Cải
1942 HS -2853
138 Nguyễn Thanh Phong 1939 HS -349
139 Hùynh Văn Khôi
1921 KC - 400
140 Bùi Ngọc Liên
1950 HS -3178
141 Dương Thị Bảy
1931 3426
142 Lê Thị Hướng
1944 3427
143 Phan Thị Kiến
1931 3428
144 Nguyễn Văn Nết
1930 3429
145 Đặng Văn Bon
1931 3430
146 Lê Thị Năm
1926 3433
147 Lê Văn Chú
1919 3434
148 Phan Thị Háo
1942 3437
149 Nguyễn Thị Tám
1954 3438
150 Nguyễn Văn Nhựt 1930 3441
151 Hùynh Thị Út
1938 3442
152 Nguyễn Thị Ràng 1939 3445
153 Nguyễn Thị Hiệp 1941 3456
154 Hùynh Thị Lan
1923 3455
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
408

41.9 Page 409

▲back to top


155 Lương Minh Trận 1953
156 Phan Văn Đỗ
1955
157 Lê Minh Châu
1957
158 Hùynh Văn Sặt
1952
159 Đặng Thị Thu Hương 1950
160 Trần Văn Tưng
1950
161 Huỳnh Thị Tuyết Hoa 1936
162 Nguyễn Thị Hạnh 1952
163 Phạm Thị Phiên
1937
164 Hồ Thị Cúc
1957
165 Đặng Thị Khen
1932
166 Hồ Kim Anh
1947
167 Huỳnh Kim Sa
168 Nguyễn Văn Xuyên 1954
169 Nguyễn Hồng Hải
170 Huỳnh Thị Kim Anh
12006
12007
12008
12009
12010
12013
3760
3774
3773
3772
3771
3770
3877
13628
Đã mất
Chuyển đi
Chuyển đi
Chuyển đi
409

41.10 Page 410

▲back to top


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1997), Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập I,
Nxb. Đồng Nai.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1998), Tổng
kết công tác binh vận tỉnh Đồng Nai trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, Nxb. Đồng Nai.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1986), Đồng
Nai 30 năm chiến tranh giải phóng 1930 - 1975, Nxb. Đồng
Nai.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988),
Long Thành những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988),
Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930 - 1975, Nxb.
Tổng hợp Đồng Nai.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (1999),
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Biên Hòa, Nxb. Đồng Nai.
7. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai
(2005), Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Đồng Nai 1930 -
2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


8. Ban Chỉ đạo lễ Kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa -
Đồng Nai (1998), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành
và phát triển, Nxb. Đồng Nai.
9. Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai 1975 - 1995 (tập III), Nxb. Công an
nhân dân.
10. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa Thông tin Thể
thao Đồng Nai (1996), Những Bà mẹ Việt Nam anh hùng
tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai (1992), Đồng Nai
những trận đánh điển hình trong chiến tranh giải phóng
1945 - 1975, tập 1, Nxb. Đồng Nai.
12. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Pháp
1945 - 1954, Nxb. Công an nhân dân.
13. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước 1954 - 1975, Nxb. Công an nhân dân.
14. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Biên
niên sự kiện lịch sử Công an tỉnh Đồng Nai 1996 - 2010,
Nxb. Công an nhân dân.
15. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 (2016), Từ
điển Quân khu 7, Nxb. Quân đội nhân dân.
16. Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử biên niên
1975 - 1996, Nxb. Công an nhân dân.
411

42.2 Page 412

▲back to top


17. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ
quốc gia (2021), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa
bạ triều Nguyễn, [tập IV: Nam Kỳ], Nxb. Hà Nội.
18. Phan Đình Dũng, Nguyễn Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp
về Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
19. Đảng bộ huyện Long Thành (2015), Lịch sử Đảng bộ
huyện Long Thành, Nxb. Đồng Nai.
20. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn
Trạch anh hùng, Nxb. Đồng Nai.
21. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai.
22. Đảng ủy Công an tỉnh Đồng Nai (2017), Lịch sử
Đảng bộ Công an tỉnh Đồng Nai 1945 - 2000, Nxb. Công
an nhân dân.
23. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai
(2005), Công an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1945 - 1954,
Nxb. Công an nhân dân.
24. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai
(2005), Công an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1954 - 1975,
Nxb. Công an nhân dân.
25. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (2015),
Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Đồng Nai 1945 - 2010, Nxb.
Đồng Nai.
26. Hồ Sơn Đài, Trần Quang Toại (1985), Đồng Nai
những đơn vị anh hùng, Nxb. Đồng Nai.
412

42.3 Page 413

▲back to top


27. Hồ Sơn Đài chủ biên, Đỗ Tầm Chương, Nguyễn
Quang Hữu (1997), Lịch sử chiến khu Đ - Hào khí Đồng
Nai, Nxb. Đồng Nai.
28. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí,
[bản dịch của Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính],
Nxb.Tổng hợp Đồng Nai.
29. Học viện Quân sự cao cấp, Ban Tổng kết kinh nghiệm
chiến tranh (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước -
những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân.
30. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Đoàn Đặc
công 113 với Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Quân đội nhân
dân.
31. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Tiểu đoàn
240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb.
Tổng hợp Đồng Nai.
32. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam
Kỳ (2005), Lịch sử Khởi nghĩa Nam Kỳ (tái bản), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền
Đông Nam bộ (2003), Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ
lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
(1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia.
34. Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai (2013), Địa danh
Hành chính, Văn hóa, Lịch sử Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
413

42.4 Page 414

▲back to top


35. Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong
trào Nông dân và Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai 1930 - 2015,
Nxb. Đồng Nai.
36. Hồ Sĩ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn Sen (1998),
Lịch sử Việt Nam 1945 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau.
37. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, [5 tập I:
Tổng quan, tập II: Địa lý, tập III: Lịch sử, tập IV: Kinh tế,
tập V: Văn hóa - xã hội], Xí nghiệp in Đồng Nai, Nhà in
Thông tấn xã Việt Nam.
38. Tỉnh ủy Đồng Nai (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai 1975 - 2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
39. Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai.
40. Huỳnh Văn Tới, Nguyễn Minh Hùng (2019), Bà mẹ
Việt Nam anh hùng tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
41. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Nguyễn Trí Nghị
(2015), Di tích danh thắng Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
42. Trần Quang Toại (chủ biên), Hồ Sơn Đài, Trần Toản,
Nguyễn Quang Hữu, (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Tân
Phú, Nxb Đồng Nai.
43. Trần Quang Toại (chủ biên 2013), Địa danh hành
chính văn hóa lịch sử Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
44. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm Đảng Cộng sản Việt
Nam - những chặng đường lịch sử 1930 - 2012, Nxb. Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
45. Robert (1924), Địa chí tỉnh Biên Hòa [Lê Tùng Hiếu
- Nguyễn Văn Phúc biên dịch, 2015], Nxb. Đồng Nai.
414

42.5 Page 415

▲back to top


46. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (2001), Việt Nam - Đồng Nai
trăm năm nhìn lại, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
47. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai
(2005), Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai
từ 1930 - 2000, Xí nghiệp in Đồng Nai.
48. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn
(2010), Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo
dục Việt Nam.
49. Các báo cáo, văn kiện của xã Phú Hội, Văn phòng
Đảng ủy xã Phú Hội.
415

42.6 Page 416

▲back to top


Muïc luïc
LỜI GIỚI THIỆU.........................................................7
Chương I
VÙNG ĐẤT, CƯ DÂN
VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA..............11
1. Địa lý, môi trường tự nhiên.......................................11
2. Cư dân và hoạt động kinh tế.....................................17
3. Lịch sử hành chính....................................................19
4. Sắc thái văn hóa........................................................27
Chương II
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH
TỪ KHI CÓ ĐẢNG ĐẾN Cách mạng Tháng Tám
(1930 - 1945)................................50
1. Phong trào đấu tranh yêu nước trước năm 1930.......50
2. Đấu tranh cách mạng từ khi có Đảng đến
Cách mạng Tháng Tám (1930 - 1945)......................56
3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945............................77

42.7 Page 417

▲back to top


Chương III
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954).......85
1. H ai năm đầu Cách mạng Tháng Tám
(1945 - 1946).............................................................85
2. C ùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện
chống Pháp (1946 - 1951).......................................103
3. N hững năm cuối kháng chiến chống Pháp
(1951 -1954)............................................................121
Chương IV
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC (1954 - 1975)...................129
1. Đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang
(1954 - 1960)...........................................................129
2. Kết hợp đấu tranh, làm thất bại quốc sách
“Ấp chiến lược” (1961 - 1965)...............................149
3. Đ ấu tranh mở vùng, tiến công và nổi dậy
xuân Mậu Thân (1965 - 1968)................................172
4. Giữ vững phong trào, chuẩn bị tiến lên giải phóng
(1969 - 1972)...........................................................196
5. Giữ thế tiến công, nổi dậy giải phóng quê hương
(1973 - 1975)...........................................................217

42.8 Page 418

▲back to top


Chương V
THỜI KỲ XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 1994)...............................234
1. Bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng
chế độ mới (1975 - 1985)........................................234
2. Xây dựng và phát triển theo đường lối Đổi mới
của Đảng (1986 - 1994)...........................................247
Chương VI
XÂY DỰNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG THÔN (1994 - 2010)................264
1. N âng cao sức chiến đấu của Đảng bộ, kiện toàn bộ máy
chính quyền, phát huy vai trò Mặt trận, đoàn thể thực
hiện mục tiêu phát triển...........................................264
2. T hành tựu trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập phát triển.........................................................280
Chương VII
TẠO NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(2010 - 2020)...............................300
1. Xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính
trị vững mạnh, tập trung hiện đại hóa nông thôn....300
2. T hành tựu trong phát triển, xây dựng Nông thôn mới
(2015 - 2020)...........................................................315
3. Q uy hoạch và định hướng triển bền vững
(2020 - 2025)...........................................................330

42.9 Page 419

▲back to top


Kết luận......................................................................339
Phụ lục........................................................................349
- Đ ội du kích xã Phú Hội được phong tặng danh hiệu
anh hùng Lực lượng vũ trang năm 1978.
- B ản đồ xã Phú Hội trong cơ cấu hành chính huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
- Hình ảnh một số lãnh đạo xã Phú Hội
- Hình ảnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng xã Phú Hội
- Hình ảnh hoạt động của xã Phú Hội
- Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hội
qua các thời kỳ
- Danh sách Bà mẹ Việt Nam Anh hùng xã Phú Hội
- Danh sách Liệt sĩ, thương binh, những người có công
- Danh sách tham gia kháng chiến
Tài liệu tham khảo....................................................410
Mục lục.......................................................................416

42.10 Page 420

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỘI (1930 - 2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch; Đảng bộ xã Phú Hội
Mã ISBN: 978-604-42-0411-6
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Ngô Thị Huyền
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Ngô Thị Huyền
Hoàng Phương
.......................................................................................................
In: 200 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn -
134/8 Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số xác nhận ĐKXB: 420 – 2024 / CXBIPH / 3 – 44 / ÑoN, Cục
Xuất bản, In và Phát hành xác nhận ngay: 01/02/2024, Quyết
định xuat bản số: 04/QĐA-NXBĐN, do NXB Đồng Nai cấp
ngày: 07/06/2024. In xong và nộp lưu chiểu: quý 2/2024.
.......................................................................................................
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 -
P Kinh doanh: 946 521 - P Kế toán: 946 520
Fax: (02513) 946 530 - Email: nxbdongnai@hcm.vnn.vn